|
Giáo phận
Bùi Chu
Nhà thờ Giáo xứ Bách
Tính
 Nhà
thờ Giáo xứ Bách Tính
Giáo hạt Báo Đáp |
|
Địa chỉ :
Nam Hồng, Nam Trực, Nam Định ( Bản đồ )
Chánh xứ : Linh mục Jos Hoàng Văn Tuấn
(15/12/2015)
Tel |
|
E-mail |
|
Năm thành lập |
|
Bổn Mạng |
|
Số giáo dân |
872 |
Giờ lễ |
Chúa nhật : |
|
Ngày thường : |
Các nhà thờ lân cận
:
Tư liệu : Lược
sử Giáo xứ -
H́nh ảnh Giáo xứ
- Tin tức sinh hoạt
*
Bách Tính đón Cha xứ mới (15/12/2015)
|
|

Lược
sử Giáo xứ Bách Tính
LƯỢC
SỬ GIÁO XỨ BÁCH TÍNH
GIÁO
PHẬN BÙI CHU
1635 - 2009
LỜI MỞ ĐẦU
Để mở đầu cho cuốn sách này,
chúng tôi xin được mượn lời Bài hát "Quê Hương" nhạc Phan
Đ́nh Điểu, thơ Phan Thanh Nhàn:
"Quê Hương là chùm khế
ngọt …
Quê Hương nếu ai không
nhớ, sẽ không lớn nổi thành người."
Thật thế, hai tiếng "Quê
Hương" đă nói lên nguồn cội, mà đă là người th́ đều phải có quê và
có cội. Hướng về cội th́ quả thật không chỉ có những người đi xa
mà ngay cả những người c̣n ở nhà cũng cần phải biết cội nguồn ấy.
Với thao thức làm sao để
những người con Quê Hương Bách Tính, dù ở Hải Ngoại hay tại Ba
Miền: Bắc- Trung- Nam của Tổ Quốc, nhất là những người trẻ được
hiểu biết và tự hào về quê hương. Nhân dịp lễ kính thánh Phêrô và
Phaolô Tông đồ, chúng tôi xin giới thiệu quư độc giả cuốn: "Sơ
Lược Lịch Sử Giáo Xứ Bách Tính".
Đây chỉ là những "Sơ Lược",
không phải là cuốn kỷ yếu cũng không phải là cuốn lịch sử thuần
túy. Bởi nó c̣n rất nhiều thiếu sót v́ khả năng hạn hẹp, hơn nữa
nguồn tài liệu lại hết sức giới hạn.
Chúng tôi hân hạnh giới
thiệu cuốn sách này với ḷng yêu mến "Quê hương Bách Tính’’. Xin
quư vị hăy xem như đây là một bản sơ thảo và sẵn ḷng chỉ giáo,
nhất là gửi những tài liệu liên quan đến Giáo xứ Bách Tính để khi
có dịp chúng tôi sẽ chỉnh sửa và bổ sung.
Sau cùng, xin quư vị độc giả
cùng chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa v́ Ngài đă cho chúng ta được gặp
gỡ nhau và gặp gỡ Ngài qua cuốn sách này.
Kính chúc quư độc giả an
mạnh và tràn đầy ơn Chúa để chúng ta cùng nhau xây dựng bảo tồn và
phát triển Giáo xứ.
Lễ Chúa Hiển Dung, ngày
6/8/2009
J.b. Mai Quang Tuyến.
NH̀N CHUNG VỀ GIÁO XỨ
BÁCH TÍNH
I – HIỆN TẠI:
* Giáo xứ Bách Tính hiện nay
gồm 5 giáo họ nằm trên địa bàn 2 xă Nam Hồng và Nam Hoa:
1. Giáo Họ Nhà Xứ (xóm
Hồng Thượng, xă Nam Hồng…)
2. Giáo Họ Đại (xóm Hồng
Đại, xă Nam Hồng…)
3. Giáo Họ Cát (xóm Hồng
Cát, xă Nam Hồng…)
4. Giáo Họ Hưng Nghĩa (thôn
Hưng Nghĩa, xă Nam Hoa…)
5. Giáo Họ Trí An (đội 1,
thôn Trí An, xă Nam Hoa…)
* Địa bàn: Bách Tính nằm áp
sát quốc lộ 21(Cách thành phố Nam Định 12 Km về phía Nam, phía
Đông áp sát con sông Hồng )
II- NGUỒN GỐC
Khoảng thế kỷ 13, vùng đất
Bách Tính đă có dân từ các làng lân cận đến khai khẩn lập ấp.
Năm 1635, các tu sỹ ḍng Tên
đến giới thiệu Tin Mừng Đức Ky tô với người dân Bách Tính và nhiều
người đón nhận cùng sống Tin Mừng.
Do sức phát triển mạnh của
vùng truyền giáo và do nhu cầu mục vụ cho giáo hữu, Đức Cha Gioan
De San Ta Cruz Thập nâng Bách Tính lên hàng giáo xứ năm 1720.
Nhân dịp đức cha Thánh Y
Igna Tiô Delgado kinh lược các giáo xứ trong giáo phận và đă phê
sổ công hàm nhà xứ năm 1806 (theo sách kỷ yếu giáo phận Bùi Chu
1533-1999 ).
Từ khi hạt giống được gieo
vào ḷng đất quê hương yêu dấu này, người dân trăm họ đă biết ấp ủ
hạt giống tin mừng đem ấp ủ vào ḷng đất phù sa màu mỡ bên ḍng
Sông Hồng tươi mát. Hạt giống nảy mầm tươi tốt, cành lá sum suê,
bóng cả bao trùm một vùng rộng lớn - đó là xứ mẹ Bách Tính đông
vui sầm uất, là mẹ hiền ḥa đă sinh ra những người con phương
trưởng và đàn cháu đông vui, thế nên có câu:
Tương Nam cao rộng
vẻ vang,
Nam Hưng ca hát
vinh quang Chúa Trời.
Hưng Nhượng phúc
lộc hơn người
Mười sáu xứ họ rạng ngời
đức tin…
III- CÁC GIÁO HỌ THỜI XƯA
Năm 1916, xứ Bách Tính gồm
16 giáo họ với một địa bàn rộng lớn là 16 xă:
1) Họ Nhà Xứ, 2) Họ
Hưng Nghĩa, 3) Họ Cát, 4) Họ Đại,
5) Họ Quy Phú, 6) Họ
Tương Đông ( hay Họ Nhương Đông), 7) Họ Xối
Thượng, 8) Họ Thượng Lao, 9) Họ Tráng Việt, 10)
Họ B́nh Yên, 11) Họ Liên Tỉnh, 12) Họ Nam Hưng,
13) Họ Duyên Hưng, 14) Họ Thượng Trang, 15) Họ
Vĩnh Thượng, 16) Họ Vĩnh Hạ ( xưa các cụ gọi là vĩnh
ba ng̣i v́ xưa chưa có cầu cống, muốn vào đó phải lội qua 3 cái
ng̣i).
Thời kỳ đó rất đông giáo dân
nên các cụ có làm một bộ kiệu Chúa có hai tầng, tầng trên có 8
người khiêng đứng nghiêm vào tầng kiệu dưới, tầng dưới là 24 người
khiêng di chuyển đi. Bộ kiệu c̣n giữ đến sau Giáo xứ c̣n ít người
nên đời Cha giáo Đaminh Thùy, Ngài và các cụ tháo bỏ, dùng thanh
đ̣n cái của kiệu đó làm cột lớn của Ṭa Chính hiện nay.
Thời gian trước (được các
cụ kể lại): Có những cuộc rước từ Tương Nam về rất hoành tráng,
uy nghi và trọng thể nên phải chăng dựng những kiệu lớn như vậy.
Hay có lần đón Đức Giám Mục đi kinh lược từ Nam Hưng về giáo xứ
rất trọng thể.
V- THỜI KỲ TÁCH XỨ
Năm 1918 Đức Cha Muna Gorri
Trung xét nhu cầu mục vụ v́ số giáo hữu ngày trở nên đông, Ngài
lấy họ Tương Đông, họ Xối Thượng, họ Thượng Lao, Họ Tráng Việt, họ
B́nh Yên, họ Liên Tỉnh lập nên thành Giáo xứ mới gọi là Giáo xứ
Tương Nam.
Năm 1920, Ngài tách 2 họ
Vĩnh Thượng và họ Vĩnh Hạ lập nên Giáo xứ mới gọi là Giáo xứ Hưng
Nhượng.
Năm 1925, Ngài tách 3 họ: họ
Nam Hưng, họ Duyên Hưng và họ Thượng Trang lập nên Giáo xứ mới gọi
là Giáo xứ Nam Hưng ( theo sách kỷ yếu Giáo Phận Bùi Chu).
VI- THỜI KỲ SAU TÁCH XỨ
- Sau khi tách xứ (Tương
Nam, Hưng Nhượng và Nam Hưng) xứ mẹ Bách Tính c̣n 5 họ, sau
thêm 2 họ nữa là họ Trí An và họ Phố Bè.
- Quan Thầy chung của Giáo
xứ là Lễ Đức Mẹ Mân Côi (lễ kính vào 7/10 )
1) Giáo họ Nhà Xứ:
Quan thầy Thánh Phêrô (lễ kính vào 29/6)
2) Giáo họ Cát: thành lập
năm 1750, Quan thầy Thánh Đaminh (lễ kính vào 8/8).
Sau được phép Giáo Phận năm 1983 cho nhận Mẹ Vô nhiễm (lễ kính
vào 8/12)
3) Giáo họ Hưng Nghĩa: thành
lập năm 1782, Quan thầy Thánh Giuse kết bạn (lễ kính vào
19/3) và sinh nhật Đức Mẹ (lễ kính vào 8/9)
4) Giáo họ Đại: thành lập
năm 1749, Quan thầy Thánh Phanxicô Linh mục (lễ kính vào
3/12) và Đức Mẹ Hồn Xác lên trời (lễ kính vào 15/8)
5) Giáo họ Quy Phú: thành
lập năm 1798, Quan thầy Thánh Gioan Tông đồ (lễ kính vào
27/2)
6) Giáo họ Trí An: thời kỳ
Cha Phêrô Đoán về coi xứ, cha Liễn làm cha phó lập nên họ Trí An
năm 1917, Quan thầy Thánh Phaolô trở lại (lễ kính 25/1)
7) Giáo họ Phố Bè:
được tách từ một xóm thuộc Giáo họ Nhà xứ, v́ thấy xóm giáo dân
đông sốt sắng (xóm này bên ngoài băi Sông Hồng ). Cha già
Trị về coi Giáo xứ, Ngài cho xây nhà thờ và lập Giáo họ Phố Bè năm
1935, Quan thầy Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê su (lễ kính
vào 1/10).
VII- CÁC XÓM CỦA HỌ NHÀ
XỨ
Năm 1935: thời gian Giáo họ
Nhà xứ rất đông giáo dân, các cụ chia làm 6 xóm:
1) Xóm Phố Bè - Quan Thầy
Thánh Têrêsa
2) Xóm Đông nhất - Quan Thầy
Thánh Vinhsơn
3) Xóm Đông nh́ - Quan Thầy
Trái tim
4) Xóm giữa - Quan Thầy
Thánh Giuse
5) Xóm sau - Quan Thầy Thánh
Gioan và Thánh Giuse
6) Xóm tây- Quan Thầy Thánh
Phêrô
V́ có các xóm nên trong xứ,
họ có tổ chức công việc ǵ Ban hành giáo chỉ việc báo cho các ông
đầu của các xóm, ông trưởng xóm đó có trách nhiệm loan báo và đôn
đốc bà con xóm ḿnh thi hành nhanh chóng và thuận tiện.
VII. NHÂN DANH GIÁO XỨ
Năm 1916 có 5524,
Năm 1951 có 986, năm 1999 có
833 nhân danh trong đó có 397 nam và 436 nữ.
Đến nay, năm 2009 có trên
1102 nhưng trên thực tế v́ có nhiều thanh niên nam nữ đi làm ăn
tản mát nhiều nơi ít khi về, nên con số không đủ 1102 nhân danh ở
nhà. (theo sách kỷ yếu giáo phận ).
VIII- CÁC ĐẤNG TỬ ĐẠO
TRONG XỨ
Ngày 2/7/1859 là năm Tự Đức
thập tam (Có người gọi tên là ông Đội Cơn) dẫn một toán
quân rất đông về làng Bách Tính truy lùng bắt các người đàn ông có
đạo, phá phách cướp bóc tài sản các gia đ́nh. Sau đó đốt cháy nhà
thờ chính xứ đồng thời đốt luôn cả làng mạc, cũng may hôm đó gió
đông thổi lớn và khi trời đă tối th́ họ cũng thu quân bỏ về. Càng
về tối, gió đông càng mạnh hơn nên sót được xóm đông không bị cháy,
nên tổ tiên lúc đó mới c̣n được chỗ nương thân nhờ nhau. Cho đến
ngày được thả tự do, các cụ mới dựng lại được nhà cửa.
Sự kiện đau thương này các
cụ có viết một cuốn sách thơ ca rất dài nhưng rất tiếc cuốn sách
đó đă bị thất lạc.
Trong toàn giáo xứ có 79
đấng tử đạo, sau đây xin chi tiết từng họ:
1- Giáo Họ Nhà Xứ: có 11
đấng, nhưng thực sự hài cốt được tôn vinh cuối nhà thờ chỉ là 5
đấng:
1) Cụ Phêrô Tốn
2) Cụ Phêrô Tảo 36 tuổi
3) Cụ Phêrô Siêu 31 tuổi
4) Cụ Phêrô Tuấn 26 tuổi
5) Cụ Phêrô Kiêm 32 tuổi,
hiện đang suy tôn trên đài ở hàng thứ 10 và 11 có 3 đấng c̣n lại
là cụ Đaminh Lĩnh, cụ Phêrô Thường 24 tuổi, cụ Phêrô Dị 26 tuổi.
Ba đấng này được các cụ truyền lại: táng ở gian thứ 5 nhà thờ gỗ
cũ (bán cho Xương Điền) và c̣n một cụ nữa là Phêrô Gia 35
tuổi cụ này bị đập chết buông sông.
* Theo bản án các thánh tử
đạo họ nhà xứ th́ c̣n có hai đấng nữa bị mất xác là cụ Phê rô Bảo
34 tuổi và cụ Đaminh Ba 22 tuổi ( việc này không được các cụ
lưu truyền lại).
2- Giáo Họ Quy Phú: có 35
đấng nhưng chỉ có 34 đấng có hài cốt hiện đang tôn vinh ở cuối nhà
thờ chính xứ, xếp trong 8 hàng mỗi hàng có 4 đấng, hàng thứ 9 xếp
2 đấng nữa. c̣n một đấng không được các cụ nói rơ tên bị đập chết
buông sông. (Các cụ nói: Giáo dân tốn bao nhiêu công sức đi t́m
hài cốt, sau cùng Ngài phải hiện về bảo đừng t́m kiếm nữa).
* Lưu ư: Họ Nhà Xứ và họ Quy
Phú, tại đây quy tụ hài cốt 39 đấng về đài các thánh tử đạo ở cuối
nhà thờ chính xứ để tôn kính.
Ngày13/11/1954 dưới sự chỉ
đạo và giám sát của cha Gioakim Nguyễn Đức Hinh cha chính xứ Tương
Nam là cha quản xứ Bách Tính lúc đó. Đài hồi đó c̣n làm sơ sài,
sau 7 năm đến năm 1961 Ngài chỉ đạo cho 2 cụ trùm Phêrô Bính (
trùm chánh ) và cụ Phêrô Sắt ( trùm phó ) xây kiên cố
như hiện nay, c̣n các họ Cát, Đại, Hưng Nghĩa hài cốt các đấng
được tôn kính ở đài giáo họ đó.
3- Giáo họ Cát: có 17 đấng
nhưng hài cốt tôn kính trên đài cuối nhà thờ giáo họ có 6 đấng là:
cụ Đaminh Hội, Cụ Đaminh Hoán, cụ Đaminh Gỗ, cụ Đaminh Phụng, cụ
Đaminh Bài, cụ Đaminh Thừa. theo tờ bản án họ Cát c̣n lưu giữ, th́
c̣n 11 đấng c̣n lại được táng tại nhà quán cũ ở gian chính giữa.
trong đó có 2 thầy là thầy Sung và thầy Xuân (V́ 2 thầy ở nơi khác
đến nên các cụ không rơ tên thánh, tên họ. c̣n lại 9 đấng là: 1)
cụ Đaminh Trọng (Tạo), 2) cụ Đaminh Khánh, 3) cụ Đaminh Thư, 4) cụ
Đaminh Tri, 5) cụ Đaminh Thim, 6) cụ Đaminh Xe, 7) cụ Đaminh Thùy,
8) cụ Đaminh Chưng (Chung), 9) cụ Gioan Cận.
4- Giáo họ Đại: có 13 đấng
diễm phúc tử đạo, hiện đang tôn kính trên đài cuối nhà thờ giáo họ
là: 1) cụ Phêrô Cương, 2) cụ Phêrô Lương, 3) cụ Phêrô B́nh, 4) cụ
Phêrô Nhi, 5) cụ Phêrô Hồi, 6) cụ Phêrô Cử, 7) cụ Phêrô Mà, 8) cụ
Phanxicô Ḥa, 9) cụ Phêrô Báo, 10) cụ Đaminh Đức, 11) cụ Phêrô,
12) cụ Đaminh Bằng, 13) cụ Phanxicô Bảy.
5- Giáo họ Hưng Nghĩa: có 3
đấng được tôn kính ở cuối nhà thờ giáo họ là: 1) cụ Thome Ṿng, 2)
Cia Cinti Hoan, 3) cụ này không tên thánh, tên gọi.
IX- CÁC THÁNH ĐƯỜNG TRONG
GIÁO XỨ: ( hiện tại c̣n 5 nhà thờ )
1- Nhà thờ Giáo họ Nhà xứ:
Thật là ơn trời mưa xuống,
đất tốt trổ hoa, một ngôi thánh đường chính xứ nguy nga, đồ sộ với
hai ngọn tháp cao lồng lộng như hai cánh tay mẹ hiền vươn lên trời
cao xin ơn mưa móc xuống cho đoàn con dương thế trong giáo xứ.
Công tŕnh này do cha già Trị, với bàn tay lao động có đức tin của
các bậc tiền bối trong bao năm tháng và tồn tại đến ngày nay.
Hoàn thành năm 1936, được
các cụ kể lại rằng: "trước khi làm nhà thờ được cha và các bậc
tiền bối có tổ chức làm trên dưới 10 ḷ gạch ở băi sông Hồng. Các
khuôn để đóng gạch mộc được làm sẵn theo các gờ chỉ lồi lơm theo
mẫu thiết kế. Hồi đó, các cụ nung gạch bằng củi, cỏ,… khi xây cứ
thế lắp ráp vào, không phải chặt đẽo gạch. Nhà thờ dài 60m, trên
gian thánh 2 bên hông nhà thờ có xây đua ra 2 bên h́nh thánh giá.
Hai bên đó rộng 22 m nội tâm, 25 m phủ b́. Theo lời các cụ kể: hồi
đó giữa giáo xứ Tương Nam và Bách Tính đua nhau làm nhà thờ to. Xứ
nhà hạ móng trước, xứ Tương Nam lên tham quan các cụ về thiết kế
to hơn xứ nhà, các cụ xứ nhà biết được thế, các cụ liền mở thêm
móng rộng ra hai cánh bên, nhà thờ thành h́nh thánh giá vừa đẹp
vừa rộng.
Hai cây tháp trước kia, các
cụ làm trên đầu tháp c̣n có 4 gọng vó, 4 góc vuông ṿng lên chụm
đầu vào nhau, ở giữa là quả cầu tṛn và trên cùng là thánh giá.
Sau bị băo hất đổ gọng vó này xuống. hai đầu tháp chỉ c̣n trơ như
hiện tại.
Từ năm 1660, tổ tiên đă 4
lần làm nhà thờ. Nhà thờ thứ 4 đời Tự Đức thập tam (1859) đốt cháy.
Cha già Giản về coi xứ, Ngài cho dựng nhà thờ thứ 5 làm bằng gỗ
lợp bổi khá to lớn và hoành tráng. Cha già Trị về coi xứ lần thứ 6
làm nhà thờ xây, vẫn được tu dưỡng và sử dụng đến bây giờ. C̣n nhà
thờ gỗ được bán cho giáo xứ Xương Điền.
2- Nhà Thờ Họ Cát:Từ
khi đón nhận Tin Mừng đến 1915 không được các cụ kể lại. chỉ biết
khi cha Đoán về coi xứ ngài cho làm nhà thờ họ Cát năm 1922, sau
bị băo đổ. Cha già Trị về coi xứ ngài cho xây lại nhà thờ hiện
nay. Chiều dài 30m, rộng 10m, cao 10m.
3- Nhà Thờ Họ Đại:
Nhà thờ cũ các cụ làm, sau
bị băo đổ. Cha già Trị về coi xứ Ngài cho xây lại ngôi nhà thờ như
hiện nay năm 1933. chiều dài 33m, rộng 10m, cao 12m.
4- Nhà Thờ Họ Hưng Nghĩa:
Nhà thờ trước được các cụ
làm bằng gỗ năm 1920. Khi cha xứ Phê rô Nguyễn Đức Long xét thấy
giáo dân ngày một đông vả lại nhà thờ gỗ lâu ngày nhiều chỗ hư
hỏng. Ngài cho xây lại, hoành tráng, to đẹp hơn năm 2005. Chiều
dài 29,5m, rộng 13m, cao 14m.
5- Nhà Thờ Họ Trí An:
Cha Đoán về coi giáo xứ.
Ngài thành lập nên giáo họ Trí An năm 1917. Theo lời kể của ông
cựu quản Phaolô Ri người giáo họ cho biết: từ khi thành lập giáo
họ đến nay, giáo họ đă 5 lần di chuyển nơi ở và 8 lần làm nhà thờ.
Nhà thờ thứ 8 hiện nay, cha xứ Phê rô Nguyễn Đức Long cho xây dựng
năm 2004. Chiều dài 27m, rộng 10m, cao 7,5m.
Hai họ trong giáo xứ không
c̣n nhà thờ là họ Quy Phú và Phố Bè
6- Giáo họ Quy Phú:
Năm 1931, cha già Trị về coi xứ cũng được Ngài xây dựng nhà thờ.
Sau v́ cuộc sống giáo dân trong giáo họ tản mác đi làm ăn xa nhiều
nơi. Nhà thờ gần như bị bỏ hoang, giặc giă đến chiếm đóng làm nơi
đồn bốt. đến khoảng 1953, nhà thờ bị phá hủy toàn bộ. giáo dân chỉ
c̣n một gia đ́nh cụ Hợp và con cháu, sau cũng sát nhập vào giáo họ
nhà xứ.
7- Giáo họ Phố Bè:
khoảng năm 1935, đây là nơi buôn bán các loại gỗ, luồng, tre, nứa,…
V́ bên trong đê là sông con, bên ngoài đê là sông Hồng chưa bị lở,
từ mặt đê ra sông c̣n rộng khoảng 1km nên bà con tụ tập buôn bán
rất đông vui, sầm uất. cha già Trị về coi xứ, Ngài xây nhà thờ lấy
tên là họ Phố Bè. Sau băi sông ngày càng lở, nhà thờ cũng bị lở
theo. Giáo dân vào sát nhập họ nhà xứ, họ Cát, họ Đại. Hằng năm
đến 1/10 những người này thường vẫn xin lễ kính thánh Têrêsa. Để
tưởng nhớ hai họ Phố Bè và Quy Phú không c̣n nhà thờ, đến năm 1996
cha cố Kim Long và quan bác Thuận đă sáng kiến ra bàn bạc với ông
Phêrô Nguyễn Văn Viện- hội trưởng hội đồng hương Bách Tính ỏ Sài
G̣n tổ chức khuyên cúng làm hai pho tượng và ṭa Thánh Gioan quan
thầy họ Quy Phú và thánh Têrêsa quan thầy họ Phố Bè đưa về nhà thờ
chính xứ để tôn thờ thay cho hai họ không c̣n nhà thờ. Cũng thời
gian đó các Ngài làm luôn cả 14 đàng thánh giá nổi bằng thạch cao
đưa về đặt tại nhà thờ chính xứ thay thế cho bộ đàng thánh giá cũ.
X- CÁC CHA COI SÓC
Từ khi đón nhận tin mừng đến
năm Tự Đức cấm đạo, không được nghe các cụ nói lại là những cha
nào coi xứ, các cụ chỉ hướng dẫn cho từ năm cấm đạo trở lại đây.
Nhưng theo sách kỷ yếu giáo phận 1553-1999, sách này có chép là:
1) cha Dinh
2) cha Nghiễm
3) cha Du
4) cha Hiển
5) cha Văn
6) cha Phiên
7) cha Đaminh Tri
8) cha Toản
9) cha Đaminh Trứ
10) cha Toàn
11) cha Đaminh Lương
12) cha Đaminh Quảng
13) cha Đaminh Tuân
14) cha Đaminh Thông
15) cha Vinh sơn Quán.
Thời gian sau cấm đạo trở
lại đây được các cụ kể tỉ mỉ.
1) Cha già
Đaminh Nguyễn Văn Giản (
1869-1900)
Ngài về coi xứ, nhà thờ bị
Đội Cơn dẫn quân về đốt rồi ngài đă huy động giáo dân họ xứ làm
nhà thờ bằng gỗ lợp bổi đẹp đẽ, to lớn. nhà thờ chính xứ này, đến
khi cha già Trị về coi xứ, Ngài làm nhà thờ xây hiện giờ, th́ nhà
thờ gỗ bán cho giáo xứ Xương Điền. Ngài tạ thế ngày 4/8/1900 tại
giáo xứ. thi thể Ngài được giáo xứ an táng ở gian trên cùng áp
gian thánh. Nhà thờ bằng gỗ cũ đă bán rồi, đến nay nhà thờ xây nên
không rơ vị trí ngài nằm an nghỉ. Tháng 8/2005, cha xứ Phê rô
Nguyễn Đức Long- Ngài đặt làm mộ đá đặt ở trong sân đài thánh tử
đạo để giáo dân tưởng nhớ, tri ân Ngài.
2) Cha Đaminh Vũ Văn Duệ (
1872-1914).
Ngài là nghĩa tử cha già
Giản và là cha phó của ngài. Ngài tạ thế tại giáo xứ ngày
25/4/1914. Thi thể Ngài được an táng tại phía nam nhà thờ chính xứ
( thẳng gian thánh ra). Đến 8/2005, cha xứ Phê rô Nguyễn
Đức Long tổ chức giáo xứ cải táng Ngài và được rước trọng thể đưa
hài cốt ngài vào trong sân thánh tử đạo táng và làm mộ đá đặt lên
để tri ân ngài.
3) Cha Đaminh Phượng (
1914-1916 ).
Ngài cũng là nghĩa tử cha
già Giản
4) Cha Phê rô Đoán (
1916-1929 ).
Ngài về coi xứ xây nhà thờ
họ Cát (1922 ). Lập nên giáo họ Trí An ( 1917 ) và ngài lập ban
kèn đồng ( 1918 ). Như vậy ban kèn đồng đă có từ thời đó, được các
cụ trong xứ duy tŕ, cho đến năm 1954, giáo dân di cư nên không
c̣n người sử dụng. Toàn bộ kèn được bảo quản và cất trong ṭa giải
tội ( ḥm ) ở cuối nhà thờ. Đến năm 1965, cụ trùm Phêrô
Bính ( trùm chánh ), cụ Phêrô Sắt ( trùm phó ) xin
phép cha quản xứ ( cha Gioakim Hinh ), các cụ bán cho xứ
Phú An để lấy kinh phí xây lại nhà chính hiện nay v́ nhà chính cha
ở lúc đó bằng gỗ lợp bổi lâu năm hư hỏng nặng. Năm 1954, cha
Đaminh Đinh Duy Khiêm- Ngài đă có dự tính làm lại nhưng rồi ngài
di cư nên không kịp làm. Nhà chính xứ đó các cụ hoàn thành năm
1966.
Đến năm 1998, quan bác Phêrô
Nguyễn Đức Thuận ( anh Cha Kim Long ) Ngài ở Sài G̣n về
thăm quê hương, ngài tham dự cuộc rước, Ngài thấy không được sôi
động v́ thiếu ban kèn đồng, nên nguyện vọng ngài muốn dựng lại ban
kèn. Sau đó, Ngài bàn với cha xứ Phê rô Nguyễn Đức Long và cha Kim
Long. Đồng thời ngài giao cho ông cựu trùm Phê rô Toan nên dự trù
khoảng bao nhiêu loại kèn, mỗi loại kèn là bao nhiêu chiếc, ướm
kinh phí toàn bộ khoảng bao nhiêu? Sau đó ngài yêu cầu cho anh em
học nhạc. sau 3 tháng học nhạc ( 7/1998- 10/1998) trực tiếp cha
Kim Long, Ngài cầm tài chính về và Ngài lên Hà Nội mua kèn về trao
cho Cha xứ làm phép và để anh em lo tập. Anh em đă lo tập ngày 3
buổi sáng, trưa, tối. Đến 1/11/1998, đại lễ các Thánh, ban kèn
được ra mắt, phục vụ lễ. Từ đó ban kèn được duy tŕ học thêm và
phục vụ cho đến nay.
5) Cha phó của cha Đoán là
cha Liễn.
6) Cha kế tiếp là Cha già
Trị 1929-1936.
Ngài là Trưởng Tử của cha
giáo Thuật ( Cha bản hương ) về coi xứ Ngài xây nhà thờ
chính xứ hiện nay, xây nhà thờ họ Quy Phú, xây nhà thờ Phố Bè, xây
nhà thờ Họ Cát, Họ Đại ( nhà thờ họ Cát Cha Đoán mới làm bị băo
đánh đổ ).
7) Tiếp đến là PauLo
Chúc ( không được các cụ kể ǵ về cha ).
8) Cha Phaolô Khải ( 1937-
1939 ), Ngài lập hội cầu nguyện nghĩa binh thánh thể.
9) Sau đó là cha giáo
Đaminh Thùy ( Tháng 11/1939-1942 ), ( ngài cũng là nghĩa tử cha
già Giản ).
Ngài xây tiếp hai tháp
chuông ( cha già Trị c̣n xây dở ) vào áo cuối nhà thờ, ngài
làm ba bộ ṭa nhà thờ chính xứ ( hiện nay ) và số ṭa treo
cột ( sơn son thiếp bạc phủ hoàng kim ). Ngài thay gỗ lim 3
gian cuối trên mái nhà thờ ( khi trước tạm bỏ bằng tre luồng ).
10) Cha Đa Minh Nguyễn Thế
Vị ( 1942-1945 ). Ngài vào áo tường hai hông nhà thờ phía ngoài,
làm đường kiệu chung quanh nhà thờ. Ngài tạ thế tại giáo xứ
9/11/1945 thi thể Ngài giáo xứ an táng ở cuối nhà thờ chính xứ về
phía bắc đến tháng 8/2005 cha xứ Phê rô Nguyễn Đức Long tổ chức
giáo xứ cải táng và rước hài cốt Ngài trọng thể ṿng quanh nhà thờ
về an táng ngài trong sân Đài các thánh tử đạo và lập mộ đá để tri
ân ngài.
11) Cha Micae Trần Đức Huỳnh
( 1946-1952 )
Thời ḱ này khó khăn không
xây dựng kiến thiết được, nhưng ngài đă để lại cho giáo xứ Bách
Tính một nghĩa tử vô cùng quư giá là: Cha cố nhạc sĩ Phêrô Nguyễn
Kim Long.
12) Cha Đaminh Đinh Duy
Khiêm ( tháng 2/1952-9/1954 ) Ngài dự định xây lại nhà pḥng chính
xứ để ở, nhưng chưa kịp làm th́ đi di cư. Từ đó giáo xứ sống trong
cảnh buồn tẻ, v́ giáo dân di cư tản mác, người nam, kẻ bắc, giáo
dân thưa thớt, lại không có cha coi sóc nữa. Đáng tiếc cho một xứ
mẹ mà mồ côi cha.
13) Cha xứ Tương Nam Gioakim
Nguyễn Đức Hinh ( quản xứ Bách Tính 1954-7/1/1965 ).
Ngài qua đời tại giáo xứ
Tương Nam.
14) Cha Phêrô Phạm Văn Cử (
Cha quản xứ 1966-1976 )
15) Cha Giu Se Phạm Đ́nh
Chẩn cha quản xứ
( 1979-1994 )
Ngài đă qua đời tại giáo xứ
Tân-B́nh an táng Ngài tại giáo xứ Tân-B́nh nơi ngài coi sóc.
16)Cha Phêrô Nguyễn Đức Long
( quản xứ 2/1994-10/2006)
Ngài về quản xứ đến ngày
9/10/1994 Chúa Nhật 28 thường niên ( tức 5/9/âm lịch ) ngày chầu
lượt của giáo xứ. Được Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất, ngài về ban
thánh lễ, chính ngài đă cho công bố bài sai bổ nhiệm cha Phêrô
Nguyễn Đức Long cha xứ Bách Tính 9/10/1994-3/2006. Ôi! Thật là tạ
ơn chúa, người dân trăm họ nay vui mừng kể sao cho xiết. Trải qua
năm tháng buồn tẻ 1954-1994 tṛn 40 năm xứ mẹ mồ côi nay đă bừng
sáng trở lại.
Cha Phêrô Nguyễn Đức Long
ngài về xứ với ơn Thánh Linh, với sức trẻ hăng say, với tài ba của
người thợ gặt nhà Chúa, trí lực gồm thâu
Mặc dù với trách nhiệm Đức
Cha giao là cha quản xứ của 6 xứ, một giáo miền rộng lớn nhưng
ngài vẫn cho mua sỉ vôi huy động giáo xứ đóng gạch bi, cho phá các
bờ bụi xây tường bao quanh nhà xứ, cho xây nhiều gian nhà phía
đông nhà xứ, trong đó có để khoảng 20 gian làm nhà t́nh thương,
giành cho những người kém may mắn, Ngài tung hoành nam bắc kêu gọi
nhà hảo tâm giúp sức để sửa sang kiến thiết giáo đường chính xứ
xây dựng lại thánh đường họ Trí An ( 2004 ), thánh đường họ Hưng
Nghĩa (2005) và c̣n nhiều nhà thờ trong miền Ngài coi.
V́ đă có Cha xứ là chỗ dựa
đáng tin cậy, nên Cha bản hương: Phêrô Kim Long, Quan bác Phêrô
Nguyễn Đức Thuận ( anh cha cố ) và hội đồng hương Bách Tính
Sài G̣n, các Ngài kêu gọi thân ân nhân trong nước và hải ngoại rất
nhiều lần rót kinh phí về cha xứ để sửa sang thánh đường được
hoành tráng như ngày nay. Năm 1995 đổ bê tông trên mái ( đôm ở
gian Thánh ) tháng 9/1996 tôn tạo gian thánh lát gạch men, lát
gạch men nền nhà thờ thiếp lại 3 ṭa chính, Ṭa chầu và nhà chầu
bằng vàng, đóng 73 ghế dài (1997, do đồng hương Hoa Ḱ tài trợ
), làm trần nhà thờ, làm mới 5 ṭa cột, sửa lại đường kiệu.
Tháng 2/1999 thiếp lại hai bộ kiệu, tháng 8/1999 đóng thay các cửa
ngang và toàn bộ cửa sổ. Năm 2000 đóng cửa cuối giữa nhà thờ,
trong nhà xứ ngài tổ chức giáo xứ đào mở rộng ao, xây bờ chung
quanh. Xây dựng nhà giáo lí, trồng cây cảnh chung quanh nhà thờ và
khắp vườn trong nhà xứ.
Năm 1994 khi Ngài mới về xứ
Ngài đă chỉ cho ông Phêrô Toan ( trùm chánh) và ông Phêrô
Vần (trùm phó) làm đơn xin xă hội toàn bộ khu ruộng trũng
trước làng về cho họ nhà xứ được hơn hai mẫu và ao cũ của họ được
7 sào ( mới xin lại được ). V́ trước năm 1954 nhà xứ có 3
mẫu tư điền, thời gian vào hợp tác đă hiến cho tập thể. Nhờ đó có
lí do để xin ao trước làng. Sau đời ông Phêrô Khiêm làm trùm
chuyển đổi làm ao thả cá hết.
Chỉ kể ở đây sơ qua những
nét chính, c̣n nhiều việc Ngài làm kể chẳng xiết.
Ngài c̣n dự định cải tạo
thánh địa cải táng các mộ vô thừa nhận lên quy vào hàng lối xây
lập mộ đẹp đẽ cho họ làm Kỳ Đài giữa thánh địa để tiện việc dâng
lễ và cầu nguyện tại thánh địa. Dự định mua mấy hộ sau đài các
thánh tử đạo để mở nốt con đường thẳng cuối nhà thờ chạy tuột ra
đường 21, ngài c̣n dự định trao đổi với mấy gia đ́nh gần chung
quanh Thánh Đường mua đất làm nhà cho họ để mở rộng khu Thánh
Đường và c̣n nhiều dự định khác.
Tháng 3/2006 vâng lời Đức
Cha giáo phận Ngài chuyển đổi đi xứ, mọi tầng lớp giáo dân trong
xứ vô cùng luyến tiếc ngài. Từ trong nhà xứ ra đến thánh đường
hoành tráng như ngày nay là nhờ Cha Nguyễn Đức Long vô cùng to lớn,
cũng như ơn cha Kim Long và Quan bác Thuận, hội đồng hương Bách
Tính Sài G̣n, hội đồng hương hải ngoại Hoa Ḱ, thân ân nhân xa
ngần, đă không tiếc công sức tiền của đổ vào nhà thờ chính xứ vô
vàn. Người dân trăm họ nay không biết đền ơn các ngài sao cho xứng,
chỉ biết ghi chép lại cho muôn đời thế hệ sau, để biết mà cảm tạ
ngợi khen chúa và nhớ cầu nguyện nhiều cho các Ngài.
17) Cha già Micae Trần Minh
Tiến tháng ( 3/2006- 4/2008 ). V́
sức khỏe có hạn nên Ngài chủ yếu chăm lo về đức tin cho giáo xứ,
chỉ giáo cho ông Phê rô Đam ( trùm chánh ) cùng cộng tác với ông
Đaminh Đề (chánh xứ) khuyên tiến cúng về làm trần giữa gian thánh.
V́ điều kiện bệnh tật, nên tháng 4/2008 được Đức Cha giáo phận cho
ngài về hưu và chữa bệnh tại quê nhà .
18) Cha Gioan.B Mai Quang
Tuyến ( quản xứ 5/2008 ) Cha xứ Dương A.
XI - CÁC CHA BẢN HƯƠNG
TRONG XỨ(có 16 cha)
* Giáo họ Nhà xứ: có
11 cha và cha Đỗ Minh Lư (12 cha)
1- Cha Phêrô Nguyễn Văn Khâm
Ngài an nghỉ tại giáo phận, 8/2005 cha xứ Phêrô Đức Long, tổ chức
rước ngài về trong sân các thánh tử đạo cuối nhà thờ chính xứ, Lập
mộ đá tri ân ngài.
2- Cha Phêrô Nguyễn Văn
Khoát: Lấy đức khó nghèo làm lí tưởng đời sống Linh mục.
3- Cha Phanxicô Nguyễn Minh
Đăng:
4-
Ḍng Đồng Công cùng lí tưởng như cha Khoát
4- Cha Phêrô Nguyễn Minh
Châu: Cha xứ, xứ thánh Tâm- Bảo Lộc
5) Cha nhạc sĩ
Phêrô Nguyễn Kim Long
Tổng thư kư Thánh nhạc Việt
Nam, Phó Ủy ban Thánh nhạc, kiêm Giáo sư.
6- Cha Phêrô Nguyễn Quốc Túy
T.U. và phụ trách xứ đạo
7- Cha Phê rô Dương Bá Hoạt.
T.G.M.Đài Bắc.
8 - Cha Phêrô Nguyễn Văn
Trịnh
9- Cha Phêrô Nguyễn Văn
Truyền
10 - Cha Giuse Bùi Quang
Cường, hiện đang coi Giáo xứ Trà Cổ.
11 -Cha Giuse Nguyễn Văn
Ninh.
* Giáo họ Quy Phú
1- Cha giáo Gioan Lưu Thiện
Thuật: Ngài có 8 con, cha già Trị là trưởng tử
2- Cha Gioan Lưu Mai Khiên:
Ḍng ngôi lời Truyền Giáo ( Hồng Kông)
* Giáo họ Đại
1- Đức đan viện phụ Phanxicô
Phạm Quang Điện.
2- Cha Phanxicô Phạm Ngọc
Châu (con cụ cố Chấn).
* Giáo họ Hưng Nghĩa
Cha Giuse Lê Ngọc Anh ( Hồng
Kông ) con cố Diệm
Ngoài ra c̣n một cha sinh ra
và lớn lên tại xứ Bách Tính ( gốc ông bà cố ở họ Thượng Lao xứ
Tương Nam ) là Cha Giacôbê Đỗ Minh Lư GĐ Hiệp hội Thánh mẫu Việt
Nam.
XII- Các hội đoàn trong
giáo xứ
1- Hội Gia trưởng:
Khi trước vẫn có hội Gia
trưởng nhưng chưa đi vào quy mô hoạt động sôi nổi, vẫn c̣n rời rạc.
Đến năm 2003, được cha xứ
Phêrô Nguyễn Đức Long tổ chức cho củng cố lại, cho lập danh sách
từng họ và bầu ông Trưởng hội ( mỗi họ một ông Trưởng hội ).
Toàn giáo xứ có tất cả 209 hội viên. Toàn giáo xứ nhận thánh Giuse
thợ làm quan thầy. Hằng năm, cả giáo xứ xin tổ chức lễ kính Thánh
quan thầy vào 1/5 rất long trọng và sốt sắng.
2- Hội hiền mẫu:
Năm 2003, cũng được Cha xứ
Phêrô Nguyễn Đức Long cho củng cố lại để đi vào hoạt động sốt sắng
hơn. Mỗi họ cũng bầu một hội trưởng của họ đó để tiện việc tổ chức.
Các họ tổ chức may y phục
đồng màu theo họ ḿnh, nên trong Giáo xứ, họ tổ chức cuộc rước màu
y phục của họ nào đi vào hàng của họ đấy nh́n rất đẹp mắt.
Tổng số hội viên trong toàn
giáo xứ là 234. Hội viên nhận lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền
thánh ( lễ nến ) làm quan thầy. hằng năm được tổ chức lễ
quan thầy rất quan trọng vào ngày 2/2.
3- Hội thiếu nhi Thánh
thể: Hội này đời cha Phaolô Khải về coi xứ, Ngài đă lập nên
vào năm 1938. Trải qua các thời đại với rất nhiều hàng quản đă măn
khóa, lại được bầu khóa khác lên duy tŕ.
Sôi động nhất là vào thời
điểm năm 1952 ( thời kỳ chưa di cư ) được chia làm
nhiều đội ( mỗi đội có tên là Phêrô, Têrêsa, …) và được bầu tông
đồ đội đó. Chung quanh sân nhà thờ chính xứ được phân bổ mỗi đội
một khoảng đất để trồng hoa các loại. chiều đến, đội nào cũng đua
nhau vun tưới rất vui.
Các thiếu nhi đi lễ, đi nhà
thờ được phát vé, ai chăm đi nhiều th́ được nhiều vé. Vé đó cuối
năm được tổ chức mở hội chợ, thiếu nhi lấy vé đó mà mua ảnh tượng,
tràng hạt, kinh thánh …
Thời gian sau di cư năm 1954
v́ c̣n ít người nên có buồn tẻ hơn. Đến năm 1994, cha Phêrô Nguyễn
Đức Long về nhận xứ, từ đó lại hoạt động sôi nổi. Cha cho mở rất
nhiều lớp giáo lư từ cấp I đến cấp III. Tổ chức cho thiếu nhi 12
giờ trưa đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể rất sốt sắng và hội vẫn
duy tŕ đều đặn.
Quân số hiện nay có 110 cháu.
Hằng năm được tổ chức lễ quan thầy kính Ḿnh Máu Chúa được GLV,
ông bà quản và phụ huynh lo tổ chức lễ cho các cháu rất sốt sắng.
4- Huynh đoàn giáo dân
Đaminh:
Huynh đoàn được củng cố và
phát triển trên cơ sở Hội ḍng Ba Đaminh mà các cụ trong giáo xứ
đă duy tŕ từ trước và vẫn tiếp tục duy tŕ cho đến khi củng cố
lại.
Năm 2003, được phép của cha
xứ Phêrô Nguyễn Đức Long, cùng với sự giúp đỡ của ban thường vụ
liên huynh giáo phận và ban phụng vụ liên huynh giáo hạt Báo Đáp
chỉ đạo khôi phục và chuyển đổi thành huynh đoàn giáo dân Đaminh.
Trong thời gian củng cố và chuyển đổi này, được sự chỉ bảo trực
tiếp của cha xứ Phêrô Nguyễn Đức Long và cha Gioan Vũ Đức Đạt. Từ
đó được nhanh chóng kiện toàn là 80 đoàn viên và đă bầu ra 7 vị
trong ban phụng vụ do ông Gioan Bùi Quang Tản đoàn trưởng.
Về tổ chức được chia làm 4
chi huynh của 4 giáo họ: họ Nhà xứ, họ Cát, họ Đại, họ Hưng Nghĩa
và đă thực hiện giờ kinh ban chiều ở 4 chi huynh các ngày trong
tháng. Riêng ngày Chúa nhật đầu tháng và các lễ trọng th́ thực
hiện giờ kinh chung toàn huynh đoàn giáo xứ tại nhà thờ chính xứ.
Sau đó sinh hoạt và học tập chung toàn giáo xứ.
Vào ngày lễ kính Thánh
Đaminh năm 2008. Cha đặc trách giáo phận Giuse Đinh Khắc Vịnh đă
tổ chức thâu nhận chính thức 62 anh chị em- nhận thánh Catarina
Sehina làm bổn mạng. Hằng năm mừng lễ kính vào ngày 29/4.
Số thành viên của huynh đoàn
thêm được 12 thỉnh sinh nữa là 74 thành viên. Hiện nay cầu nguyện
2 lần kinh phụng vụ là sáng, chiều tại 4 chi huynh.
5- Ca đoàn
Từ xa xưa đă có ca đoàn để
phục vụ thánh lễ và các nghi thức …Thường có một ca đoàn ở họ nhà
xứ. Hồi đó, chủ yếu phụng vụ bằng tiếng Latinh, sau chuyển đổi
sang tiếng Việt. Đến đời Cha Giuse Phạm Đ́nh Chẩn th́ có các họ
như: họ Cát, họ Đại cũng thành lập ca đoàn của họ ḿnh để phục vụ
lễ quan thầy giáo họ. Khi Cha Phêrô Nguyễn Đức Long về coi xứ, một
thời gian sau Ngài cho mỗi ca đoàn của giáo họ được trực 1 tuần
thay đổi. Đến sau, Cha lại cho các ca đoàn của các họ sát nhập
chung vào một ca đoàn chung cho giáo xứ. Thời gian đầu do ông
Phêrô Toan làm trưởng đến sau chuyển làm trưởng hội kèn đồng. hiện
nay, do cô Maria Phạm Thị Đài làm trưởng và duy tŕ cho đến nay.
Số thành viên thường duy tŕ được 30 thành viên. Quan thầy được
nhận đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
6- Ban kèn đồng
Đă có từ lâu khi cha Phêrô
Đoán về coi xứ, Ngài đă thành lập ban kèn đồng năm 1918 và được
các vị trong họ nhà xứ duy tŕ rất sốt sắng. Hồi đó, tỉnh Nam Định
mở hội thi kèn, ban kèn Bách Tính đi thi đạt giải nhất tỉnh. Sau
năm 1954, giáo dân di cư không c̣n người sử dụng. Đến năm 1965, cụ
Phê rô Bính ( trùm chánh ) và cụ Phê rô Sắt ( trùm phó )
được phép của cha quản xứ Gioakim Nguyễn Đức Hinh, hai cụ đă bán
kèn đi cho xứ Phú An, lấy tiền làm nhà chính hiện nay.
Đến năm 1996, Quan bác Phêrô
Nguyễn Đức Thuận ( anh cha cố Kim Long ), Ngài ở Sài G̣n về
thăm quê hương, Ngài tham dự cuộc rước, Ngài thấy không được sôi
nổi v́ không có hội kèn đồng, nên nguyện vọng Ngài muốn dựng lại
ban kèn. Sau đó, Ngài bàn với cha Kim Long và Cha xứ Phêrô Nguyễn
Đức Long, rồi Ngài bàn với ông cựu trùm Phêrô Toan nên dự trù. Khi
đă quyên góp được đủ kinh phí, Ngài điện về cho thu thập anh em tổ
chức học nhạc. Đến 10/1998, Cha Kim Long đưa kinh phí về, Ngài
trực tiếp đi Hà Nội mua kèn về cho anh em tập. Đến 1/11/1998, đại
lễ kính các thánh ban kèn được ra mắt phục vụ lễ. Quân số thời
gian đó có 27 thành viên. Từ đó ban kèn luôn được duy tŕ và lấy
thêm người vào học để thay thế người đi vắng để tiện phục vụ. quan
thầy đại lễ trái tim Chúa Giê su.
7- Hội trống:
Trước kia ở họ Nhà xứ cũng
đă có một hội trống nhưng chỉ có số ít những quả trống nhỏ do cụ
Dũng làm trưởng hội, để phục vụ các cuộc rước hay lễ tang. Nhưng
sau v́ lâu đời, mặt trống bị bục rách không sử dụng được nữa.
Thời gian sau, ở giáo họ Đại,
ông Phanxicô Cầu lên làm trùm chánh thấy các cuộc rước không có
tiếng trống kém phần sôi nổi, nên ông đă mạnh dạn dựng nên hội
trống này năm 1994 và nhờ ông Đấu ở xứ Báo Đáp xuống hướng dẫn cho
hội. quân số trong hội là 25 thành viên, trang phục được may rất
sặc sỡ, đẹp đẽ.
Từ đó đến nay, trải qua 5
đời ông hội trưởng, đầu tiên là ông Phanxicô Thịnh, sau đó đến ông
Phanxicô Tiến, ông Phanxicô Kim, ông Phanxicô Chiên và bây giờ là
ông Phanxicô Hiển đương nhiệm. Từ khi hội trống được thành lập đến
nay, các hội viên rât nhiệt t́nh phục vụ. Khi trong giáo xứ hay
giáo họ tổ chức các cuộc rước hay đám tang sôi động hẳn lên. Nhưng
cho đến nay, bộ trang phục bị hư đă nhiều. Thật đúng câu các cụ
thường nói: “ sống dầu đèn chết kèn đồng’’.
Lời tri ơn của tác giả
T.b. V́ ḷng mộ mến quê
hương, thời xưa con chỉ được nghe các cụ nói: ‘’ xứ Bách Tính là
xứ mẹ ‘’ cứ luôn thắc mắc trong thâm tâm.mẹ là mẹ như thế nào?
Thời gian con đang giúp cha
già Hinh tại giáo xứ Tương Nam nhất là vào dịp năm 1958 kỉ niệm
100 năm dâng hiến giáo phận cho Đức Maria vô nhiễm ( Đức cha
Giuse Phạm Năng Tĩnh ) con đă t́m hiểu một số cụ già trong
giáo xứ như: cụ trùm Bính, cụ trùm Sắt, cụ Điều ,
Bà cụ Hiến ( Hồi đó cụ
đang trông coi nhà xứ, cụ hơn 80 tuổi, nhưng cụ rất minh mẫn rất
nhớ truyện xa xưa). Thời gian đang trong quân ngũ (sau khi
đă giải phóng Miền-Nam ), có về Sài-G̣n. Hỏi các cụ già cả
trong đó. Sau đó lại c̣n vào Sài G̣n mấy lần nữa hỏi cố Tải (
cố cha Túy ), ông Viện ( hội trưởng hội đồng hương Bách
Tính ở Sài G̣n ) vv và được nghe chỉ giáo nhiều, nhất là quan
bác Thuận ( anh cha Kim Long ) gần đây nhất bác có gửi cho
bức thư, Ngài viết: Sài G̣n ngày 5/10/1999…chú Toan…như tôi đă
hằng nói với chú, vừa qua tôi đọc trong cuốn kỷ yếu địa phận về xứ
nhà, tôi thấy c̣n ít nhiều thiếu sót, nên ghi lại để sau này con
cháu ḿnh rơ hơn phần lịch sử…vv
Tất cả được nghe các cụ kể
thường được ghi vào sổ tay hoặc ghi vào thâm tâm. Con vô cùng biết
ơn các bậc tiền bối đă chỉ bảo.
* Về sách được xem cuốn hiện
t́nh giáo phận (1951) gần đây là cuốn kỷ yếu giáo phận Bùi Chu
1533-1999, nhờ đó mà con mạo muội viết lại cuốn lược sử này.
Con xin thành kính xin các
quư cha cũng như các quư vị có biết ǵ về lịch sử giáo xứ Bách
Tính cũng như phần nào ghi chép chưa đúng, xin làm ơn bổ sung, góp
ư cho con để cuốn lược sử này được hoàn chỉnh hơn để lưu lại và
truyền cho con cháu hậu thế mai sau. Con xin chân thành cảm tạ.
Thay lời kết:
Để ghi lại được cuốn sách
nhỏ này, trước tiên con xin hết ḷng cảm tạ đội ơn Chúa đă soi
sáng cho tâm trí con. Con xin thành kính tạ ơn cha Gioan.B Mai
Quang Tuyến quản xứ. Mặc dù Ngài bận trong công việc chung của hai
giáo xứ, song Ngài vẫn dành thời gian để chỉ bảo tận t́nh và cộng
tác giúp đỡ con rất nhiều.
Tiếp đến là sự nhiệt t́nh
giúp đỡ của ông Đaminh Phạm Văn Đề chánh xứ ) và một số vị
chức sắc và cộng đoàntrong giáo xứ đă tạo điều kiện giúp đỡ.
Nguyện xin Chúa trả công bội
hậu cho cha Gioan.B quản xứ, các bậc tiền bối đă hướng dẫn và kể
tỉ mỉ cho biết về giáo xứ, ông chánh xứ và toàn thể cộng đoàn giáo
xứ đă nhiệt t́nh giúp đỡ để con hoàn thành được cuốn sách này.
Con xin chân thành cảm tạ.
Lễ Thánh MATTHIA Tông đồ
Bách Tính, ngày14/05/2009
Nguồn :
Sinh Viên Công Giáo Bú Chu
|
|

H́nh ảnh nhà thờ Giáo xứ Bách Tính
Xem : [ H́nh ảnh
nhà thờ Bách Tính năm 2007 ]
< H́nh chụp ngày 29 / 10 /2007 - TT Việt >














Đối diện nhà thờ là nơi thờ
phượng đấng tử đạo của GX Bách Tính
Ṭa nhà xây năm 1961, tức là
trong thời trước chiến tranh

< Bạn có thể dùng những h́nh ảnh này trong mục đích truyền thông
Công Giáo
nhưng xin ghi rơ nguồn và tên người chụp hoặc viết mail về
GiaoxuGiaohoVietnam@Yahoo.com >
H́nh ảnh bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

[Trở về đầu trang ]
|
|