Làng Tương Nam thuộc xă Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định,
là một làng thuần nông giữa vùn Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Tương Nam là địa danh được sử sách ghi lại vào những năm thuộc
thế kỷ XV-XVI. Khi đó Tương Nam là vùng đất màu mỡ do ḍng sông Hồng
đỏ lặng phù sa bồi đắp qua các thế hệ. Dân chủ yếu từ thanh Hóa, Ninh
B́nh và Phố Hiến tới đây để khai hoang lập ấp sinh sống ban đầu gồm
các họ Nguyễn, Trần, Lê, Đinh, Vũ, Phạm…dần dần nhân dân đến vùng
này sinh sống ngày một đông.
Làng Tương Nam có h́nh dạng khá đặc biệt-h́nh bán đảo ba mặt giáp
song, phía trước làng là con song Quưt bắt nguồn từ cửa cống Cổ Lễ
đi qua làng Tương Nam rồi xuống Trung Lao, Hạ Lao…rồi chảy vào ḍng
sông Đáy. Địa thế làng tương đối đẹp, khí hậu ôn ḥa, quanh năm trái
cây chín thơm, mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp…
Trong cuốn “ địa danh làng xă Bắc Bộ ” của Cao Xuân Hạo, nxb Tổng
hợp Hà Nội có nêu “làng Tương Nam hay c̣n gọi là Tương Nam xă thuộc
tổng Cổ Nông-huyện Nam Trực-tỉnh Nam Định, là làng thuần nông”.
Vị trí địa lư làng Tương Nam: làng Tương Nam phía bắc giáp Thôn
Nội, phía tây giáp Quần Trà, phía Đông giáp Tân Giang, phía nam giáp
Cổ Lễ và Xối Đông
Đời sống chung của dân làng.Dân số khoảng 1800 người trong đó
đồng bào công giáo chiếm khoảng 60% dân số của cả làng (trước đây
Tương Nam là toàn ṭng)
Kinh tế: chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và co một số ngành nghề
phụ nhưng chủ yếu là buôn bán nhiều tại chợ Cổ Lễ nằm gần làng, đời
sống dần được cải thiện và nâng cao.Đời sống của nhân dân ổn định và
phát triển, con em được ăn học đầy đủ.Bộ mặt thôn xóm được cải thiện
rơ rệt,đường làng khang trang sạch đẹp, giao thong đi lại thuận lợi
do nằm sát cửa ngơ thị trấn Cổ Lễ có quốc lộ 21B chạy qua nối liền
tp Nam Định với các huyện phía nam của tỉnh, không c̣n t́nh trạng
nghiện hút và vi phạm pháp luật…Năm 2004 giáo xứ Tương Nam được công
nhận là giáo xứ họ đạo tiên tiến, năm 2007 làng Tương Nam được công
nhận là làng văn hóa cấp tỉnh.
Vào khoảng những năm 1689-1700 lúc này Tương Nam là vùng truyền
giáo của hội thừa sai Paris và tỉnh ḍng Đa
Minh. Khi thấy đây là mảnh
đất màu mỡ để gieo hạt giống tin mừng cũng như mở rộng khu vực
truyền giáo thuộc 2 giáo xứ là Trung Lao và Bách tính là những giáo
xứ đă được thành lập trước đó.
Khi thấy giáo hữu ở đây c̣n thưa thớt các nhà truyền giáo vùng
Trung Lao kiêm thêm vùng Tương Nam và thế là công cuộc truyền giáo
bắt đầu và thật sự phát triển trong khoảng thời gian 1700-1730 v́ là
vùng truyền giáo mới nên các thừa sai thường xuyên lui lại nhà dân để
truyền giáo cho tới năm 1720 giáo họ Tương Nam chính thức được thành
lập sau hơn 20 năm phôi phai, kết quả này có lẽ làm Chúa và các nhà
truyền giáo hài ḷng.
Kết quả là khi vào năm 1720 giáo họ Tương Nam khởi công xây dựng
ngôi nhà thờ gỗ lợp lá đầu tiên, gần 1 năm sau th́ hoàn thành, giáo
họ đă có cơ sở để thờ tự, ngôi nhà thờ đầu tiên này hiện nay thuộc
khu vực đài thánh Gioan Baotixita bổn mạng giáo xứ. Thời điểm này
giáo họ Tương Nam thuộc giáo xứ Bách Tính-giáo phận Trung( bao gồm
cả Thái B́nh và Hưng Yên và do cha Mattin Gia coi sóc).
Sang thế kỷ XVII-XVIII giáo dân tập trung tại vùng Tương Nam và
Cổ Lễ là khá đông cũng vào khoảng thời gian này có thành lập giáo họ
Thượng Lao và Xối Thượng.Cả 3 giáo họ Tương Nam, Thượng Lao và Xối
Thượng đều thuộc giáo xứ Bách Tính ( xă Nam Hồng-Nam Trực-Nam
Định). Trong khoảng thời gian này phải kể đến các giáo xứ lớn trong
miền Nam Ninh là giáo xứ Trung Lao, giáo xứ Báo Đáp, giáo xứ Bách
Tính và giáo xứ Thạch Bi.
Cùng khoảng thờ gian trên là thời gian cấm đạo hết sức gắt gao
của các vua chúa triều đ́nh nhà Nguyễn nhất là trong 3 đời vua Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Cũng như các làng công giáo khác Tương Nam
cũng gặp phải khó khăn trong cơn hoạn nạn và thử thách không ít vị
đă anh dũng hy sinh và làm chứng cho t́nh yêu Chúa-quả là tấm gương
sáng cho con cháu Tương Nam hiện nay.
Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, giáo dân thuộc giáo họ
Tương Nam là khá đông, đấng bản quyền là Đức cha Pedro Munagorri
Trung đă ban sắc lệnh thành lập giáo xứ mới lấy tên gọi là giáo xứ
Tương Nam được tách ra từ giáo xứ Bách Tính và bao gồm các họ lẻ
khác là Thượng Lao, Xối Thượng, B́nh Yên thuộc xứ Bách Ttính nay
thuộc về xứ mới Tương Nam.Sự kiện trên là mốc son lịch sử ghi dấu
gần 200 năm h́nh thành và phát triển cũng như lỗ lực xây dựng của
giáo dân Tương Nam. Giáo dân giáo xứ Tương Nam chủ yếu sinh sống tại
xă Nam Thánh, phía bắc thị trấn Cổ Lễ. Cùng thời gian này có nhiều
giáo xứ mới được thành lập như Nam Hưng, Trang Hậu, An Lăng, Nam
Lạng,Phú An, Trang Hậu…
Ngày 3-12-1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đều được Ṭa
Thánh đổi tên theo địa hạt hành chính nơi đặt ṭa giám mục, nên giáo
phận Trung được đổi thành giáo phận Bùi Chu do Đức cha Pedro
Munagorri Trung coi sóc.
Năm 1934, cha xứ và giáo dân giáo xứ Tương Nam quyết định hạ giải
ngôi nhà thờ cũ do qua nhỏ bé và không đáp ứng được nhu cầu của giáo
dân. Cuối năm 1934 nhà thờ mới được khởi công do cha chánh xứ Thập
người Tây Ban Nha đốc công xây dựng và thiết kế, công việc xây dựng
hết sức khó khăn và gian khổ chủ yếu là đóng góp của giáo dân trong
và ngoài xứ, một phần do cha Thập kêu xin giáo dân khắp nơi quyên
tiền đóng góp trong công cuộc xây dựng giáo xứ, công việ xây dựng
được tiến hành nhanh chóng và khẩn trương. Năm 1936 công việc xây
dựng đang tiến triển, phần cung thánh và ba gian giữa đă xây xong
th́ biến cố xẩy ra với giáo phận. Đó là vào ngày 9-3-1936, một biến
cố lịch sử vẻ vang, cũng Đức Giáo Hoàng Piô XI đă ban Sắc Proecipuas
inter Apostolicas quyết định chia giáo phận Bùi Chu, lấy lănh thổ
tỉnh Thái B́nh và Hưng Yên để thành lập giáo phận Thái B́nh. Phần
c̣n lại vẫn giữ nguyên tên giáo phận Bùi Chu và được trao cho hàng
giáo sĩ bản quốc coi sóc. Thế là lịch sử giáo phận Bùi Chu đă sang
trang mới, giáo phận giao cho đức cha Dominico Hồ Ngọc Cẩn coi
sóc.Cha Thập được sai đi đến vùng truyền giáo mới để phục vụ, công
việc c̣n lại dở dang, cùng với sự chung sức chung ḷng của giáo dân
công việc xây dựng tuy gian lao và vất vả nhưng vẫn tiếp tục được
xây dựng.
Trong khi công việc thi công vẫn được thi công th́ năm 1937, Đức
cha Dominico Hồ Ngọc Cẩn ban sắc nâng giáo xứ Tương Nam nên hàng
giáo hạt trong giáo phận. Niềm vui khôn tả không sao kể xiết trong
long giáo dân Tương Nam.Giaos hạt Tương Nam khi thành lập gồm có cá
giáo xứ là: Tương Nam, Trung Lao, Nam Hưng, Trang Hậu, Dương A, Bách
Tính, Hưng Nhượng, An Lăng, Nam Lạng, Phú An.
Công việc xây dựng quả là gian nan và khó khăn thật sự khi công
việc không theo ư muốn,giáo dân phải đúc gạch và đốt gạch ngai ngoài
ao Đức Bà và Đền Vàng chở bằng thuyền đem về công trường đang thi
công, thật khâm phục long trí của giáo dân nơi đây khi ngọn tháp
chính cứ xây dựng lại bị đổ do giông băo. Năm 1944 giáo xứ Tương Nam
long trọng mừng lễ cung hiến nhà thờ do đức cha Dominico Hồ Ngọc Cẩn
chủ tế với nhiều linh mục trong giáo phận mặc dù ngọn tháp c̣n dang
dở. Nhà thờ có diện tích 1200m2, dài 60m, rộng 20m, cao 21m.
Vừa xây dựng nhà thờ xong th́ xẩy ra nạn đói Ất Dậu năm 1945 khi
ấy linh mục chánh xứ là Đaminh Lê Hữu Cung đă phải
mở kho phát chẩn
lương thực cứu đói cho dân không kể có đạo hay không có đạo, nhà
thương xót hoạt động liên tục dưới sự chỉ đạo của cha Cung, một linh
mực không biết mệt mỏi đă kéo nhiều linh hồn về với Chúa, trước khi
qua đời cha Cung đă làm phếp rửa tội cho họ. Đây cũng là giai đoạn
khó khăn của không chỉ giáo xứ mà cả đất nước trong hoàn cảnh nước
nhà mới độc lập c̣n non trẻ, sau đó cha Cung được sai về phục vụ
giáo xứ Tứ Trùng, và sau này làm giám mục Bùi Chu.
Giáo xứ mới bàn
giáo cho cha GB Trần Quang Tuyến 1945-1948 về coi sóc giáo xứ. Năm
1948 cha Đoan được sai về phục vụ giáo xứ, trong khỏang thời gian
này, có rất nhiều cha về Tương Nam để tĩnh tâm, và ai cũng biết đến
Tương Nam.
Năm 1954 Miền Bắc được giải phóng, biến cố năm 1954-1955 đă ghi
lại một trang sử mới, hơn 2/3 giáo dân Tương Nam cùng với hàng triệu
giáo dân khác thuộc các giáo phận Bùi Chu, Hải Pḥng, Thái B́nh,
Phát Diệm… di cư vào Nam, giáo dân Tương Nam vào định cư tại khu vực
giáo xứ Tân Mai, Biên Ḥa, Dốc Mơ, Bùi Chu tỉnh Đồng Nai thuộc giáo
phận Xuân Lộc hiện nay, số giáo dân ở lại không nhiều và số linh mục
ở lại cũng ít, linh mục phải kiêm đến 5-7 giáo xứ, nhưng không phải
v́ thế mà ḷng mến Chúa suy giảm, số giáo dân c̣n lại vẫn một ḷng
đi theo Chúa, nhà thờ tối nào cũng kinh nguyện thánh lễ đều đặn và
rất sốt sắng. Giáo xứ Tương Nam lúc này do cha Jak Nguyễn Kim Hinh
quê ở Phú An-Trung Linh coi sóc. Ngài về nhận giáo xứ trong hoàn cảnh
có nhiều thay đổi và kiêm thêm nhiều giáo xứ khác trong vùng th́ năm
1965 một buổi chiều thanh b́nh khi ngài dâng lễ cho giáo dân xong về
nghỉ đêm th́ ngài đă được Chúa gọi về.
Người mục tử nhân lành của
Chúa đă bổ giáo dân ra đi, ḷng tiếc nuối và thương nhớ người cha
chung không nguôi của từng con chiên trong giáo xứ, tiếng chuông sầu
chầm chậm ngân trong các nhà thờ của giáo xứ Tương Nam, một không
khí buồn tràn ngập mây mù trong những ngày diễn ra tang lễ, giáo dân
các xứ, các hội đoàn thay nhau kính viếng, thánh lễ đồng tế cử hành
tại nhà thờ xứ Tương Nam do Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh chủ
tế. Khuôn viên nhà thờ Tương Nam không c̣n một chỗ trống. Đoạn đường
từ nhà xứ ra đến nhà thờ dài chưa đến 100m nhưng khi di quan tài từ
nhà xứ ra nhà thờ người ta phải đi mất 3 ṿng nhà thờ mới hết, một
thánh lễ lớn chưa từng thấy ở Tương Nam từ trước tới nay. Sự ra đi
của cha Jak Hinh là không sao kể siết, mộ linh mục hiện an nghỉ ở
cuối nhà thờ xứ phía trước đài các Đấng Tử Đạo quê hương Tương Nam.
Không lâu sau đó,ngày 27/11/1960 Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh
đă
âm thầm phong chức linh mục cho 4 thầy là Dom Trần Đ́nh Bảng, Dom
Trần Văn Nguyện, Jos Vũ Duy Nhất ( sau làm giám mục phó rồi giám mục
chính ṭa giáo phận Bùi Chu) và Pet Phạm Văn Cử. Các Tân linh mục đă
cùng nhau đâng thánh lễ tạ ơn tại đền thánh Phú Nhai ngày
28/11/1960. Ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai các tân linh mục đă
được sai đi phục vụ các giáo xứ đó là: cha Nhất về Giáo Lạc, cha
Nguyện về Trung Linh, cha Bảng về Quần Phương, cha Cử về Trung Lao.
Nhờ ơn Chúa soi sang, biến cố vĩ đại nhất vùng Bắc Kỳ những ngày
năm tháng cuối năm 1963 là Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh đă âm thầm
phong chức linh mục cho 29 thầy tại đền thánh Phú Nhai, do hoàn cảnh
1 số linh mục bỏ về, số c̣n lại bị tù đầy và được tha về.
Đó là đa
số các linh mục ṇng cố của giáo phận Bùi Chu. C̣n giáo xứ Tương nam
sau khi cha Hinh qua đời hầu như đều do các cha ở Trung Lao phục
vụ. Năm 1963 cha phó Giuse Lê Ngọc Hoàn được cử về phục vụ giáo Trung
Lao với tư cách là linh mục phó xứ. Để rồi 2 năm sau cha Cử được sai
về phục vụ giáo xứ Tương Nam kiêm giáo xứ Hưng Nhượng và An Lăng.
Giáo xứ Trung Lao bàn giao lại cho cha phó Lê Ngọc Hoàn kiêm các
giáo xứ Nam Hưng-Trang Hậu-Phú An và Nam Lạng.Cha Cử tận tụy phục vụ
cho giáo xứ Tương Nam từ đó cho tới nay. Cha Cử cũng được đặt làm
linh mục quản hạt Tương Nam-Báo Đáp từ năm 1965 cho tới 1983 và sau
này bàn giáo lại cho linh mục quản hạt Vinh Sơn Bùi Công Tam chánh
xứ Báo Đáp.
Năm 1978 cha Nhất là bạn đồng môn của cha Cử được tấn phong giám
mục phó giáo phận Bùi Chu và làm giám mục chính ṭa năm 1987. Từ khi
nên làm giám mục Ngài rất quan tâm đến cha xứ và giáo dân giáo xứ
Tương Nam. Hầu như tuần chầu và ngày lế 2 thánh Phero và Phaolo bổn
mạng cha Cử năm nào Ngài cũng về dâng thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện
cho giáo xứ Tương Nam và cha già Cử. Điều này không phải giáo xứ nào
trong giáo phận cũng được ưu ái như thế.
Tin vui đến với giáo xứ Tương Nam là năm 1990 giáo xứ đă khởi
công xây dựng đài kính các đáng tử đạo quê hương. Đó là nơi an nghỉ
của 107 vị tử đạo quê hương, công tŕnh do bà con giáo daan đồng
hương Tương Nam tại Miền Nam chi kinh phí cộng với sự đóng góp hàng
ngàn công sức của bà con giáo dân. Đức cha Vũ Duy Nhất đă long trọng
làm phép và khánh thành đài các thánh tử đạo quê hương.
Năm 1998 giáo xứ xây dựng thêm phần pháp chuông c̣n dan dở từ
những năm 1944, mấu tháp được lấy từ nhà thờ chánh ṭa Thanh Hóa do
bản gốc thiết kế của nhà thờ không c̣n và ít người nhớ được kiểu
tháp thời đó. Ngày 2/9/1998/ sau 10 thánh thi công, đức giám mục
Giuse Vũ Duy Nhất, linh mục Lê Ngoạc Hoàn và cha chánh xứ Phạm Văn
cử cắt băng khánh thành. Sau khi công tŕnh hoàn thành th́ đây là 1
trong 10 nhà thờ lớn nhất gíáo phận Bùi Chu lúc đó và là nhà thờ có
tháp cao nhất hạt Tương Nam –Báo Đáp lúc đó. Lúc này tháp nhà thờ cao tới 45m (tháp cũ là 21m).
Ngày 11/12/1999 Đức giám mục Giuse Vũ Duy Nhất qua đời và gần 2
năm sau, ngày 8/8/2001 giáo phận mới có vị chủ chăn mới là Đức cha
Giuse Hoàng văn Tiệm quê ở giáo xứ Nam Phương-Hải Hậu về coi sóc
giáo phận, đúng 3 tháng sau ngày làm lễ phong chức đầu tay cho 6
linh mục là:
Stt Quư danh Năm sinh Quê quán
1 Ant Đinh Văn Đang 1958 GX Phú Nhai
2 GB Vũ Tiến Khang 1957 GX Giáo Lạc
3 Jos.Phạm Ngọc Đồng 1963 GX Quất Lâm
4 Jak.Nguyễn Văn Tường 1966 Gx Trung Linh
5 Tom Vũ Đức Thiên 1957 GX Ninh Mỹ
6 Dom.Nguyễn Văn Vàng 1960 GX Báo Đáp
Ngày 17/12 sau khi các tân linh mục dâng lễ tạ ơn tại Phú Nhai,
tại quê hương các tân linh mục trên đă về dâng thánh lễ tạ ơn tại
nhà thờ giáo xứ Tương Nam với sự hiện diện của cha Pet Phạm Văn Cử (
trước khi thụ phong linh mục cả 6 thầy trên đă từng phục vụ tại
Tương Nam, 2 thầy một đợtt và mỗi đợt kéo dài 2 tháng).
Ít ngày sau đó cha Dom Nguyễn Văn Vàng về phục vụ giáo xứ Tương
Nam, kiêm thêm 2 giáo xứ nữa là Nam Lạng và Hưng Nhượng.
Năm 2007
giáo xứ Nam Lạng do cha Mic Nguyễn Văn Tương phụ trách. Kể từ khi có
linh mục trẻ về nhận giáo xứ Tương Nam đă có luồng sinh khi mới, đó
không chỉ là sự thay đổi về co sở vật chất của giáo xứ mà đó c̣n là
sự thay đổi về tâm hồn về đời sống đạo đức của giáo dân nữa, phục vụ
3 giáo xứ với 4000 nhân danh không phải là nhiều nhưng cũng đủ để
người linh mục trẻ làm tṛn bổn phận của ḿnh đối với giáo dân là
đoàn chiên mà các linh mục có bổn phận coi soc mà đánh bản quyền
trao cho ngài.
Các công việc mà cha Vàng đă làm cho giáo xứ Tương Nam
trong thời gian cha làn linh mục chánh xứ từ 2001 đến 2007 là :
Năm 2001 tu sửa tháp chuông cổ, tháp chuông là tháp của ngôi nhà
thờ cổ ngày xưa xây dựng theo lối kiến trúc Á đông rất đẹp, cùng năm
đó có 2 công tŕnh nữa là hồi núi Đức mẹ, dâng kính Đức mẹ Lộ
Đức, núi gồm ba ngọn cao 21m, đây là ngọn núi nhân tạo ngoài trời đầu
tiên trong giá hạt có quy mô to lớn và khá bề thế. Công tŕnh tiếp
theo là nhà quán cư 5 gian phía cuối nhà thờ dung làm nơi hội họp và
sinh hoạt chung cho giáo xứ. Ngoài ra c̣n có một loạt các công tŕnh
khác như đại tu trong và ngoài thánh đường.
Năm 2004 giáo xứ xây dựng nhà giáo lư 2 tầng và gồm nhiều pḥng
học, ngày 20/4 đức giám mục Hoàng Văn Tiệm cùng với 30 linh mục đă
long trọng cắt băng khánh thành nhà giáo lư và chính thức đưa vào
sửa dụng. Kinh phí do Hội đồng hương Tương Nam ở hải ngoại và Miền
Nam đóng góp cùng với sự chịu khó lao động của giáo dân
Cuối năm 20005 sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 27/11/2005 mừng
kỷ niệm 45 năm thánh chức linh mục của cha già Pet Phạm Văn Cử (
27/11/1960-27/11/2005)-một cây cổ thụ của giáo phận. Đích thân Đức
Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm chủ tế thánh lễ tạ ơn có khoảng 50 linh mục
trong và ngoài giáo phận cùng đồng tế. Một ngày lễ măi khắc ghi trong
long bà conn giáo dân, một thánh lễ đầy ư nghĩa và mang nhiều niềm
vui trong ngày Chúa nhật I mùa Vọng, trong ngày lễ cũng có đại diện
chính quyền địa phương và UBMTTT các cấp tới chúc mừng cha già
Cử. Khi ấy cha già Cử đă 93 tuổi đ̣i, 45 tuổi Linh mục
Tin vui đến với giáo phận Bùi Chu khi ngày 29/11 tại nhà thờ
chính ṭa Hà Nội Đức Hồng Y Sepe Bộ trưởng bộ rao giảng phúc âm cho
các dân tộc đă công bố Tân giám mục phụ tá Bùi Chu là Đức cha Pet
Nguyễn Văn Đệ.
Tháng 6 năm 2006 sau đợt tĩnh tâm linh mục thường niên tại TGM Bùi
Chu Đức cha Hoàng Văn Tiệm đă công bố danh sách các linh mục quản
hạt, trong đó lại một niềm vui nữa đến với giáo xứ Tương Nam khi cha
Dom Nguyễn Văn Vàng được bổ nhiệm làm tân linh mục quản hạt Tương
Nam, đây không chỉ là niềm vui của cha tân quản hạt mà c̣n là niềm
vinh dự cho giáo xứ Tương Nam khi đức cha chỉ c̣n công nhận giáo
phận có 6 giáo hạt là: Phú Nhai, Đại Đồng, Quần Phương, Tương Nam,
Lạc Đạo, và Tứ Trùng. Các tân linh mục quản hạt sẽ chính xác nhận
chức quản hạt vào Chúa nhật kế sau khi có quyết định bổ nhiệm của
ĐGM
Dịp Lễ Tro năm 2006, giáo xứ đă xây dựng vườn đàng thánh giá phía
may nhà thờ xứ, vào ngày thứ 4 tuần Thánh Đức cha phụ tá Phero Nguyễn Văn Đệ làm phép đàng thánh giá cách trong thể, đồng
tế có cha quản hạt cũng là cha xứ, cha xứ Bách Tính, cha xứ B́nh Hải,
cha già cố và các thầy phó tế. Cuối năm 2006 là xây dựng hàng dậu sắt
ở cuối nhà thờ và các công tŕnh phụ khác nữa.
Trong 2 năm 2006-2007 có nhiều công tŕnh như đại tu nhà xứ, xây
dựng thánh địa nằm ở phía tây làng, xức dầu thánh hiến bàn thờ bằng
đá, thánh lễ do Đức giám mục Hoàng Văn Tiệm cùng các linh mục trong
giáo hạt đồng tế, tham dự trong thánh lễ cũng có 1 phái đoàn đại
diện hội đồng hương Tương Nam
tại miền Nam về dự. Thêm một công tŕnh
nữa là cây cột cờ bằng sắt cao 25m cạnh đài các đáng tử đạo.
Đây là
công tŕnh của bà con trong giáo xứ góp công xây dựng.
Sáng ngày 25/7/2007 lễ kính thánh Giacobe tông đồ, cha Vàng được
thuyên chuyển về giáo xứ Báo Đáp là quê hương của ngài, buổi chiều
cùng ngày cha Paul Vũ Minh Ḥa từ giáo xứ Phạm Pháo về phục vụ giáo
xứ Tương Nam.Từ nay giáo xứ Tương Nam do cha Vũ Minh Ḥa coi sóc và
kiêm thêm giáo xứ Hưng Nhượng cho đến năm 2008 th́ bàn giáo xứ Hưng
Nhượng cho cha Ant Đinh Văn Đang, Từ khi nhận nhiệm sở mới là giáo xứ
Tương Nam cha Vũ Minh Ḥa đă bắt tay vào các công tŕnh hoàn thiện
khu vực nhà thờ và nhà xứ đó là xây 2 đài kính 2 thánh tông đồ
Phê-rô và Phaolo bổn mạng cha chánh xứ và cha già cố, và hai công
tŕnh nữa là đài Thánh Gioan Baotixita bổn mạng họ nhà xứ ở phía Nam
và phía Tây là quảng trường Chúa Phục Sinh đang dần được hoàn thiện
và bước vào giai đoạn cuối.
CÁC LINH MỤC COI SÓC GIÁO XỨ:
Từ khi thành lập cho đến những năm 1900 Tương Nam do các cha
thuộc hội thừa sai Paris và Ḍng Đaminh coi sóc cho đến khi thành lập
giáo xứ vào năm 1901 do các cha người Việt coi sóc. Tính từ năm 1945
giáo xứ Tương Nam do các cha coi sóc là:
Các cha coi sóc giáo xứ từ 1943 tới nay:
Stt Quư danh Thời gian Ghi chú
1 Dom Lê Hữu Cung 1943-1945 Sau làm GM Bùi Chu
2 GB Trần Quang Tuyến 1945-1948
3 Jos.Lại Văn Đoan 1948-1954
4 Jak.Nguyễn Kim Hinh 1954-1956
5 Pet.Phạm Văn Cử 1965-2001 Quản hạt Tương Nam
6 Dom.Nguyễn Văn Vàng 2001-2007 Quản hạt Tương Nam
7 Paul.Vũ Minh Ḥa 2007-….
Các thầy từng giúp xứ Tương Nam là:
Stt Quư danh Thời gian Quê quán
1.Tom Vũ Đức Thiên 4-6/2001 GX Ninh Mỹ
2.Ant Đinh Văn Đang GX Phú Nhai
3.Jak.Nguyễn Văn Tường 6-8/2001 Gx Trung Linh
4.Dom.Nguyễn Văn Vàng GX Báo Đáp
5.Jos.Phạm Ngọc Đồng 8-10/2001 GX Quất Lâm
6.GB Vũ Tiến Khang GX Giáo Lạc
7.Pet Lương Trọng Thiệu 2001-2002 GX Tân B́nh
8.Ant Đinh Thanh Hùng 2002-2004 GX Kiên Lao
9.Dom Nguyễn Văn Thiện 2004-2005 GX Liễu Đề
10.Vic Vũ Thanh Tùng 2005-2007 GX Báo Đáp
TƯƠNG NAM LỚN LÊN TRONG THỬ THÁCH
Giáo xứ Tương Nam cùng chung số phận như bao các xứ đạo khác tại
miền Bắc, hàng trăm ngàn tín hữu công giáo Việt Nam đă đổ máu đào
làm chứng cho t́nh yêu chúa và giáo hội. Nhiều giáo hữu bị bắt bớ và
giam cầm hết sức khó khawn, nhất là vào 3 đời vua nhà Nguyễn khét
tiếng trừ tả đạo là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đă có biết bao
lệnh cấm đạo ban hành, nhiều chỉ dụ và sắc chỉ được công bó, hết tha
rồi lại cấm, cấm rồi lạ tha…
Trong thời kỳ cấm đạo, khi đó họ Tương Nam trực thuộc giáo xứ
Bách Tính, khi số đ́nh bị tịch thu, số tín hữu bị bắt là hơn 800
nhân danh, con số này chưa từng thấy có giáo xứ nào ở Miền Bắc Việt
Nam lại có nhiều vị anh hùng tử đạo làm chứng cho Chúa đến vậy, tuy
nhiên do các ngài bị sử nhiều h́nh phạt khác nhau, số ít bị gia nhập
vào các làng lương dân khác để họ dạy dỗ và đa phần là bị buông sông,
chủ yếu là hai con sông Hồng và sông Vị Hoàng tại pháp trường Nam
Định, số khác th́ bị lưu đày ở các vùng xa xôi hẻo lánh. H́nh phạt mà
các ngài phải chịu đựng hết sức gian khổ như tùng sẻo, trảm quyết,
lăng tŕ….ngoài ra các ngài c̣n chịu nhiều cực h́nh về tinh thần như
bị lăng nhục, bôi nhọ, buộc phải bước qua Thánh giá Chúa...các sắc
chỉ cấm đạo đó là:
- Chúa Trịnh Cương (1709-1729): 4 Sắc chỉ: năm 1709, 1712, 1721,
1722.
- Chúa Trịnh Giang (1729-1740): 1 Sắc chỉ: năm 1736.
- Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 Sắc chỉ: năm 1754, 1765.
- Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 1 Sắc chỉ: năm 1773.
Nhưng rồi chuyện ǵ đến rồi cũng rồi đi hết cơn song gió, b́nh
yên trở lại và không c̣n cấm cách, các lễ nghi và phụng vụ thánh
được tự do sinh hoạt và đây cũng là giai đoạn bắt tay vào khắc phục
khó khăn gian khổ và đi vào xây dựng giáo xứ, xây dựng quê hương
ngày càng đoàn kết và yêu thương trong t́nh thương Cháu.Chúa chúng
ta quả là biết lắng nghe lời con cái của Ngài ở chốn trần gian ngày
đêm kêu xin khi mà Đức trinh nứ Maria nhận lời cầu bầu của Ddức cha
Vinh và cha Chính Ḥa, các Ngài đă dâng giáo phận trong tay Mẹ Vô
Nhiễm từ ái và ngôi thánh đường đền thánh Phú Nhai là minh chứng cho
sự trung thành của giáo dân Bùi Chu trong cơn gian nan và thử thách.
Hiện nay tại phía cuối nhà thờ xứ Tương Nam có tượng đài xây dựng
năm 1990 kính các thánh Tử Đạo quê hương, bên trong là nơi an nghỉ
của 107 vị anh hung tử đạo, phía trên là h́nh cành vạn tuế và thánh
giá Chúa, ở bên hông có bảng danh sách và tên tuổi các vị tử đạo
đó. Thánh đài xây dựng để chuyển hài cốt 107 vị từ đầu nhà thờ phía
giáp với cổng chuông về cuối nhà thờ.Thánh đài dài 10m, rộng 10m cao
15m
Giáo xứ Tương Nam quả là một mảnh đát đă thấm đẫm máu các vị anh
hùng tử đạo và làm cho hạt giống tin mừng sinh hoa kết quả dồi dào
dâng lên Chúa như đẻ cảm tạ và tri ân t́nh Chúa thương ban.
Kể từ khi khánh thành đài các thánh cho đến nay, hàng tuần vào
ngày thứ 3 sau thánh lễ bà con giáo dân kéo nhau xuống viếng đài các
đấng tử đạo là bach cha ông và tiền nhân của giáo xứ bắt kể thời
tiết nắng hay mưa, ngày mùa bận rộn hay những ngày nông nhàn. Đặc
biệt là vào dịp tuần chầu Thánh thể hàng năm của giáo xứ đều rơi vào
ngày Chúa nhật trước lễ kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam,
vào dịp này đài các thánh mở cửa liên tục cho giáo dân các nơi đến
kính viếng và cầu nguyện liên tục trong tuần chầu.
Tương Nam có 107 vị tử đạo được giáo hội gọi là tôi tớ Chúa, dược
gia phả các gia đ́nh trong giáo xứ ghi chép và để lại cho các thế hệ
mai sau, danh sách này được khắc bia đá tại đài các đấng Tử Đạo quê
hương Tương Nam khánh thành năm 1990, nằm ở cuối nhà thờ, công tŕnh
là do bà con giáo dân đồng hương Tương Nam tại Miền Nam phụ trách.
Các giáo họ:
1.Họ nhà xứ Tương Nam
Số nhân danh: 400
Bổn mạng: Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả 24/6
Thành lập:1700
Nhà thờ: dài 60m, rộng 20m, cao 45m
Họ nhà xứ là giáo họ lớn nhất trong giáo xứ, nới đó có là trung
tâm của giáo xứ trong những ngày lễ lớn của giáo họ và giáo xứ,
đường xá đi lại rất thuận tiện nhất là vào các ngày lễ lớn trong năm
như lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh và chầu lượt của giáo xứ. Với ḷng
đạo đức và mến Chúa th́ hiện nay bà con gtrong giáo họ đă thay đổi
khá nhiều, đời sống được nâng cao về mọi mặt vật chất cũng như là
tinh thần. Với vai tṛ là giáo họ trụ cột trong giáo xứ, xin Chúa
chúc lành cho giáo họ và giáo xứ nói chung ngày một thăng tiến hơn
2.Họ
Thượng Lao
Số nhân danh: 350
Bổn mạng: thánh Giacobe 25/7
Thành lập: 1869
Nhà thờ: dài 40m, rộng 15m, cao 20m
Thượng lao là giáo họ lớn thứ 2 trong giáo xứ chỉ sau họ nhà xứ
về mọi mặt, hiện nay giáo họ rất phát triển về cơ sở vật chất như
xây nhà giáo lư, tượng đài đức mẹ mân côi ở cuối nhà thờ…những công
tŕnh đó đă chứng tỏ một Thượng Lao đang trên đà phát triển.Cá hội
đoàn của giáo họ rất tích cực trong công tác xây dựng và bảo vệ giáo
xứ ngày một thăng tiến hơn trong b́nh an của Chúa
3.Họ Xối Thượng
Số nhân danh: 200
Bổn mạng: thánh Gioan 27/12
Thành lập: 1869
Nhà thờ: dài 30m, rộng 12m, cao 13m
Xối Thượng là giáo họ thứ 3 trong giáo xứ và ta có thể gọi 2 giáo
họ Thượng Lao và Xối Thượng như 2 anh em ruột thịt của nhau, người
anh của Xối Thượng là Thượng Lao. Xối Thượng nằm ngay cạnh họ Thượng
Lao và 2 họ này chỉ cách nhau 1con đường, bởi Thánh Gi-cô-bê bổn
mạng họ Thượng Lao là anh của Gio-an bổn mạng họ Xối Thượng .Điều
đặc biệt là 2 giáo họ này cùng chung 1 thánh địa.
4.Họ B́nh Yên
Số nhân danh: 90
Bổn mạng: thánh Gioan Tẩy Gỉa trảm quyết 29/8
Thành lập: 1914
Nhà thờ: dài 24m, rộng 12m, cao 15m
B́nh Yên là giáo họ lớn thứ 4 nằm ở phía tây nhà thờ xứ và là
vùng giáo danh với giáo xứ Hưng Nhượng, tuy giáo dân ở đây không
đông như họ nhà xứ hay Thượng Lao, Xối Thượng nhưng tinh thần mến
Chúa th́ ngang nhau, tuy ít dân nhưng nhà thờ không lúc nào vắng
bóng giáo dân sớm tối đọc kinh cầu nguyện bên nhau, thật cảm động ở
vùng đạo này
5.Họ Tráng Việt
Số nhân danh: 50
Bổn mạng: thánh Tô-ma tông đồ 4/7
Thành lập:1920
Nhà thờ: dài 27m,rộng 12m, cao 16m
Đây có thể coi là những giáo họ nhỏ trong giáo xứ, họ Tráng Việt
nằm trên địa bàn xă Nam Hồng nhưng lại thuộc về giáo xứ Tương Nam. Kể
từ khi thành lập tới nay giáo họ đă rất lỗ lực phát triển cũng như
trong việc tu tŕ và bảo dưỡng nhà Chúa.Thánh bổn mạng của họ Tráng
Việt được coi là cứng ḷng nhất trong số các tông đồ nhưng con cháu
của thánh nhân lại rất trung thành theo Chúa.
6.Họ
Liên Tỉnh
Số nhân danh: 40
Bổn mạng: thánh Phê-rô tông đồ 29/6
Thành lập: 1930
Nhà thờ dài 20m, rộng 10m, cao 8m
Nếu ở trên họ Thượng Lao và Xối Thượng là 2 anh em ruột th́ Tráng
Việt và Liên Tỉnh cũng được gọi là anh em ruột v́ 2 họ này cùng nằm
trên địa bàn thôn Liên Tỉnh rộng lớn và người em Liên Tỉnh tách ra
thành họ riêng năm 1930, do đa phần di cư vào Nam nên số tín hữu
c̣n lại ở đây khá khiêm tốn nhưng không phải v́ thế mà họ cảm thấy
nhỏ bé, trong những ngày lễ lớn của giáo xứ, giáo họ cùng chung tay
với các giáo họ anh em của ḿnh làm lên ngày lễ ư nghĩa
7.Họ
Thánh An-Tôn
Sô nhân danh: 70
Bổn mạng: thánh An-Tôn 13/6
Thành lập: 2007
Nhà thờ:hoàn thành năm 2008
Là họ trẻ tuổi nhất giáo xứ, giáo dân đa số là từ Tương Nam,
Thượng Lao, Xối Thượng và B́nh Yên ra khu vực này để sinh sống và
làm ăn. Giáo họ nằm trải dài trên 2 khu phố Tân Giang và Thị trấn Cổ
Lễ. Vùng đát này trước đây gọi là Đền Vàng nằm bên bờ sông Hồng, có
đền kính thánh An Tôn nhưng do đát bị lỗ, xói ṃn đă cuốn nhà thờ đi,
nhà thờ hiện nay được xây lùi vào phía trong, đó là sự cố gắng ghi
nhậ của giáo họ, từ khi thành lập năm 2007 đến 2008 giáo họ đă có
nhà thờ để thờ phượng Chúa. Quả là một sự hy sinh lớn lao của giáo họ
và cha xứ Nguyễn Văn Vàng đă xây dựng giáo họ hiện nay.
1.Linh mục chánh xứ: Paul Vũ Minh Ḥa
Sinh 1940-quê quán: Gx Qũy Nhất Nghĩa ḥa-Nghĩa Hưng-Nam Định.
Thụ phong linh mục: 8/12/1963 tại đền thánh Phú Nhai, từng làm quản lư giáo phận, chánh xứ Phạm Pháo và Phạm Rị, nhận xứ Tương Nam ngày 25/7/2007 cho tới nay. Bổn mạng: 29/6
2.Linh mục nghỉ hưu: pet.Phạm Văn Cử
Sinh 1913-quê quán:Gx Ninh Sa Hải Ninh-Hải Hậu-Nam Định. Thụ phong linh mục: 27/11/1960 tại nhà thờ chính ṭa. Quản xứ: Trung Lao, chánh xứ Tương Nam Quản hạt Tương Nam-Báo Đáp.
Nghỉ hưu: từ năm 2001 tại Gx Tương Nam. Bổn mạng: 29/6
* Nguồn : Trang Web SVCG Bùi Chu
|