|

Lược
sử Giáo xứ Chính Ṭa Đà Lạt
Nhà Thờ Chính Ṭa, dân địa phương thường gọi là nhà thờ Con Gà (v́
trên tháp chuông có cột thu lôi đúc theo h́nh con gà). Nhà Thờ Chính
Ṭa được khởi công xây cất từ năm 1931 và hoàn thành năm 1942 với
tước hiệu Thánh Nicola Bari, sau được đổi là tước hiệu Đức Maria mẹ
Thiên Chúa. H́nh dáng kiến trúc được thiết kế đối xứng theo lối cổ
điển, có chiều dài 65m, rộng 14m, tháp chuông cao 47m. Nhà Thờ Chính
Ṭa có vị trí rất đẹp, tuy không nh́n thẳng xuống hồ Xuân Hương
nhưng v́ tháp chuông cao nên đứng ở vị trí nào dưới bờ hồ cũng đều
thấy được tháp chuông này. Cửa chính của nhà thờ hướng thẳng về núi
Lang Biang. Phần áp mái được bố trí bằng 70 tấm kính màu (chế tạo từ
Pháp) phác họa các hoạt cảnh Tin Mừng và chân dung các thánh, làm
cho không gian thánh đường càng thêm uy nghi, huyền ảo. Trên tường,
được gắn các bức phù diêu có kích thước 1 x 0.8m do nhà điêu khắc
Xuân Thi thực hiện. Khuôn viên nhà thờ có hàng rào bao bọc khép kín.
Đây là một công tŕnh kiến trúc đẹp và giá trị. Cũng chính đây là
nơi thường xuyên tổ chức các sinh hoạt đạo đức của giáo phận và giáo
hạt Dalat.
GIÁO XỨ CHÍNH T̉A DALAT
Cùng với sắc chỉ Ṭa Thánh về việc thiết lập Phẩm trật Giáo Hội
tại Việt Nam "Venerabilium Nostrorum" do Đức Thánh Cha Gioan XXIII
kư ngày 24 tháng 11 năm 1960, Nhà thờ Giáo xứ Dalat được đặt làm nhà
thờ Chính Ṭa Giáo Phận Dalat, danh hiệu thánh Nicôla Bari - về sau
được đổi danh hiệu Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Nh́n lại quá khứ trên 70 năm của ḿnh, giáo xứ Chính Ṭa Dalat
xin mượn một ư trong Thư Chung 1980 của hàng Giáo Phẩm Việt Nam để
diễn tả một cách trung thực và đầy tri ân cảm mến tâm t́nh của ḿnh:
. Chúng con cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa đă
êm ái và mạnh mẽ hướng dẫn Cộng Đoàn Dân Chúa trên phần đất Dalat
thân thương này; chúng con biết ơn công lao của vô vàn tín hữu, của
các cộng đoàn tu sĩ nam nữ, các linh mục và nhất là các Đức Giám Mục
đă đem hết khả năng, sức lực và nhiệt t́nh tông đồ, với đức tin và
ḷng mến, góp phần xây dựng nên giáo xứ Chính Ṭa ngày hôm nay.
Cùng đồng hành với bác sĩ Alexandre Yersin khám phá ra Dalat, có
linh mục Robert, thuộc hội Linh Mục Thừa sai Paris (MEP) vào năm
1893. Sau đó đến khoảng năm 1917, linh mục quản lư của MEP tại Viễn
đông là Cha Nicolas Couvreur đă đến Dalat, mục đích t́m nơi nghỉ
dưỡng cho các giáo sĩ. Chính cha đă xây dựng một Dưỡng viện giáo đồ
(Sanatorium-Presbytère), nay là một phần của nhà xứ.
Đến năm 1918, Đức Cha Lucien Mossard, Giám quản Tông Ṭa tại
Sàig̣n (1898-1920) đă đặt chân lên Dalat. Theo sổ rửa tội và sổ hôn
phối của nhà thờ Dalat c̣n lưu giữ, th́ chính Đức Cha Mossard (Đức
Thầy Măo) vào ngày 25-01-1919 đă ban bí tích rửa tội cho một em bé
Việt Nam. (sổ rửa tội quyển I, số I). Và cũng chính Người đă làm
chứng trong lễ nghi hôn phối cho một đôi bạn người Việt Nam là
Martinus Tri và Anna Kéc do cha Francois Demareq cử hành (Sổ hôn
phối quyển I, số I). Lễ nghi này được cử hành ngày 13-06-1919. Cũng
trong sổ hôn phối này, ở số 2, có ghi cha Isidore Dumortier - sau
này là Đức Cha Giám quản Tông Ṭa tại Sàig̣n - cử hành lễ nghi hôn
phối cho một đôi bạn khác, vào ngày 29-12-1919. Như thế, có thể nói,
hai Đức Cha Lucien Mossard và Isidore Dumortier là những vị tông đồ
đầu tiên đă cử hành thánh lễ, ban các bí tích cho các giáo dân Việt
Nam đầu tiên tại Dalat này. Với ḷng nhiệt thành tông đồ, với cái
nh́n rộng và xa của người mục tử, Đức Cha Mossard đă sớm nhận định
vùng đất này sẽ là một mảnh đất ph́ nhiêu để hạt giống Phúc Âm được
gieo xuống và trổ sinh hoa trái. Chính nhận định sáng suốt này của
người Chủ Chăn đáng kính đă đưa đến quyết định quan trọng và lịch sử
của vị thừa kế Người là Đức Cha Quinton, Giám quản Tông Ṭa tại Sài
g̣n, khi vào một ngày cuối tháng 4 năm 1920, người đă ban quyết định
thành lập giáo sở Dalat và bổ nhiệm linh mục Frédéric Sidot làm cha
sở đầu tiên. Ranh giới giáo sở Dalat lúc bấy giờ trải rộng tới Fyan,
Fimnom, Dran (tức thành phố Dalat, huyện Lâm Hà, Đức Trọng và Đơn
Dương ngày nay). Ngày 10-05-1920, giáo sở Dalat hân hoan đón tiếp
cha sở đầu tiên của ḿnh. Một trong những việc làm quan trọng của
Cha Sidot là xây dựng ngôi thánh đường. Chiều kích của ngôi nhà thờ
này thật khiêm tốn: dài 24m, rộng 7m và cao 5m. Nhà thờ này được gắn
liền với cánh bên tả Dưỡng viện Giáo đô đă có từ trước. Cửa chính
nhà thờ được cấu trúc theo h́nh ṿng cung nhọn (ogival), được chạm
trổ và sơn son thiếp vàng kiểu Á đông. Trên ṿng cung cửa chính, có
khắc ḍng chữ bằng tiếng La-tinh: "HIC DOMUS EST DEI" (đây là nhà
của Thiên Chúa). Chính Đức Cha Mossard đă gởi tặng ngôi nhà thờ này
một quả chuông đúc tại Việt Nam, kỷ vật lưu niệm của thời kỳ Giáo
Hội bị cấm cách khoảng thế kỷ XIX, có lẽ được t́m thấy dưới một
giếng sâu ở vùng Hóc Môn. Quả chuông này được treo trước tiền đường
nhà thờ trong suốt 24 năm và đă bị thất lạc vào năm 1945. Số tín hữu
lúc bấy giờ sống rải rác trên địa bàn rộng lớn này ước tính trên
dưới độ 200 người.
Chỉ trong ṿng một năm kể từ ngày có cha sở đầu tiên, số người
gia nhập đạo tăng dần. Ngôi nhà thờ này trở nên quá bé nhỏ. Ngày
5-7-1922, Đức Cha Quinton ban quyết định cho phép giáo sở Dalat xây
dựng một nhà thờ mới rộng răi hơn: rộng 8m, dài 26m, có tháp chuông
cao 16m, trên đó có treo 4 quả chuông do hăng Paccard, thuộc tỉnh
Savoie chế tạo. Như thế 4 quả chuông này cùng ḍng họ với 2 bộ
chuông nổi tiếng là "Savoyarde" tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Tâm
tại Monmartre và "Jean d'Arc" tại Nhà Thờ Chánh Ṭa Rouen, nước Pháp.
Chuông lớn đánh dấu ĐÔ, cân nặng 415kg, đường kính rộng 0.75m, cao
1m. Chuông thứ tư đánh dấu SOL, cân nặng 120kg. Hai chuông này đă
được Đức Cha Grangcon làm phép ngày 8-7-1923. Chuông thứ ba đánh dấu
FA cân nặng 117kg, do Đức Cha Quinton làm phép ngày 17-2-1924. Ngôi
nhà thờ thứ hai này được khánh thành ngày 17-2-1923. Hiện ngôi nhà
thờ này không c̣n nữa.
Chỉ 6 năm sau đó, trước t́nh h́nh giáo dân tăng nhanh, cha sở lúc
bấy giờ là linh mục Céleste Nicolas, một vị mục tử tài ba lỗi lạc,
có tâm hồn đạo đức, thêm đức tính cần cù, can đảm, sáng suốt, đă đệ
tŕnh Đức Giám Mục Isidore Dumortier nguyện vọng của họ đạo muốn có
ngôi nhà thờ mới, rộng lớn khang trang hơn. Đề án này bắt đầu từ năm
1929. Sau khi nghiên cứu, Đấng bản quyền chấp thuận. Chính Đức Khâm
sứ Ṭa Thánh tại Đông Dương và Thái Lan, Đức Cha Colomban Dreyer, đă
chủ sự thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi nhà thờ thứ ba -
tức ngôi nhà thờ hiện nay - vào lúc 9 giờ sáng Chúa Nhật 19-7-1931.
Việc xây cất này kéo dài 11 năm, từ năm 1931 đến năm 1942, do công
sức và ḷng nhiệt thành của cha sở Nicolas, cha quản lư Hội Thừa Sai
Paris tại Đông Dương De Coomann, các Ḍng tu nam nữ và đông đảo giáo
dân xa gần.
Công tŕnh này chia làm 3 đợt:
Đợt thứ nhất gồm gian cung thánh, hậu tẩm, hai gian cánh. hoàn
tất ngày 20-3-1932 và được một vị linh mục truyền giáo ở Lào, là cha
Dézavelle về làm phép ngày hôm ấy. Lễ khánh thành được cử hành trọng
thể nhằm ngày lễ Phục Sinh 27-3-1932.
Đợt thứ hai gồm việc xây dựng gian ḷng nhà thờ và đặt chân móng
cho các tháp chuông.
Đợt thứ ba gồm việc xây dựng tháp chuông chính, hai tháp chuông
phụ, cầu thang xoáy trôn ốc, đặt thánh giá trên đỉnh tháp chuông
chính và trên cao đặt con gà bằng đồng (14-11-1941) dài 0.66m, cao
0.58m dùng thay mũi tên chỉ hướng gió, cũng có thể là biểu tượng của
người Pháp (coq-gaulois), nhưng đúng hơn, chính là biểu tượng gắn
liền với Thánh Tông Đồ Phêrô được ghi lại trong Phúc Âm, có ư nhắc
nhở mọi người phải biết tỉnh thức và cầu nguyện trong tâm t́nh sám
hối và khiêm nhường.
Ngôi nhà thờ dài 65m, rộng 14m, tháp chuông cao 47m. Trong nhà
thờ được trang trí bằng 70 tấm kính màu, hiện c̣n ghi tên xưởng chế
tạo Louis Balmet, thuộc tỉnh Grenoble, cũng như tên các ân nhân dâng
cúng.
Vào lúc 9 giờ 30 sáng ngày áp lễ Noel năm 1941, có nghi thức đặt
tượng Đức Mẹ Thánh Tâm (Notre-Dame du Sacré Coeur) trên cửa chính
nhà thờ hướng về núi Lang Biang, để xin Mẹ che chở cho việc rao
giảng Tin Mừng tại vùng đất Lang Biang này.
Tháng Giêng năm 1942, chuyển 4 quả chuông sang nhà thờ mới và lễ
khánh thành nhà thờ được cử hành trọng thể vào ngày Chúa nhật
25-01-1942, do Đức Khâm sứ Ṭa Thánh tại Đông Dương Antonin Drapier
và Đức Cha Jean Cassaigne, Giám quản Tông Ṭa tại Sài G̣n, chủ sự
nghi lễ bắt đầu từ 5g00 sáng bằng cuộc rước kiệu Ḿnh Thánh Chúa từ
Biệt Thự Thánh Tâm về Nhà Thờ mới do Đức Khâm sứ chủ sự, với sự tham
dự đông đảo của các linh mục, các cộng đoàn tu sĩ nam nữ, các đoàn
thể công giáo, các học sinh thuộc các trường công giáo tại Đàlạt và
toàn thể giáo dân. Trước Thánh lễ, Đức Khâm sứ giảng về ư nghĩa ngày
lễ khánh thành Nhà thờ với chủ đề " Nhà thờ là biểu tượng của niềm
vui và ơn cứu độ". Sau đó, thánh lễ đại triều do Đức Cha Jean
Cassaigne cử hành.
Tháng 2-1942, nghi thức làm phép và đặt 14 chặng đàng thánh giá
trong nhà thờ. Các bức tượng được khắc chạm bằng h́nh nổi với kích
thước chiều ngang 1m, cao 0m80, bằng vật liệu xi măng và sắt, do ông
Xuân Thi, một nhà điêu khắc Việt Nam ở Hà Nội thực hiện.
Như thế, từ một giáo sở nhỏ bé trên vùng đất cao nguyên này, khởi
đầu với số trên dưới 200 tín hữu sống rải rác khắp nơi, sau hơn 70
năm, hạt giống Phúc Âm đă nảy mầm và phát triển mạnh, trở thành 3
Giáo hạt: Dalat, Đơn Dương và Đức Trọng, với khoảng 40 giáo xứ, giáo
sở và trên dưới 50.000 tín hữu. Hiện nay, địa giới của Giáo xứ Chính
Ṭa được thu gọn lại trên một phần đất thuộc thành phố Dalat và số
tín hữu là 4.500 người.
Giáo xứ Dalat đă lớn mạnh như thế là do ơn Chúa được thể hiện qua
t́nh thương và sự chăm sóc của Ṭa Thánh, của các vị Mục Tử, kể từ
Đức Cha L. Mossard, I. Dumortier, J. Cassaigne và đặc biệt, từ ngày
24-11-1960, khi Đức Thánh Cha Gioan XXIII bổ nhiệm Đức Cha Simon Ḥa
Nguyễn Văn Hiền, Giám quản Tông Ṭa tại Sàig̣n (1955-1960) làm Giám
Mục tiên khởi Giáo Phận Dalat. Cùng với thời điểm này, nhà thờ Dalat
được chính thức đặt làm nhà thờ Chính Ṭa của Giáo Phận. Trong suốt
hơn 13 năm chăm sóc Giáo Phận, Đức Cha Simon Ḥa đă dành cho giáo xứ
Chính Ṭa tất cả t́nh thương của người Cha, sự dịu hiền của người Mẹ,
sự thông thái của người Thầy. Trọn cuộc đời mục tử của ngài là "rao
giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh" (Predicamus Jesum cruxifixum).
Người đă an nghỉ trong Chúa ngày 5-9-1973 và mộ ngài được đặt tại
cung thánh nhà thờ Chính Ṭa Dalat.
Tiếp nối sự nghiệp tông đồ tại phần đất này, ngày 15-2-1975 Đức
Cha Bartôlômêô, Giám đốc và Giáo sư tại Đại Chủng Viện Huế, được Đức
Thánh Cha Phaolô VI ban sắc phong làm Giám Mục Giáo Phận Dalat. Sau
lễ tấn phong Giám Mục tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sàig̣n do
Đức Khâm Sứ Ṭa Thánh Henri Lemaitre chủ phong vào ngày 17-03-1975,
Đức Cha Bartôlômêo đă về nhậm Giáo Phận Dalat ngày lễ kính thánh
Giuse, 19-03. Với khẩu hiệu "Chân lư trong Đức Ái" (Veritas in
caritate", Đức Cha chăn dắt Giáo phận và dành sự hiện diện thường
xuyên, tâm t́nh ưu ái, ḷng nhiệt thành tông đồ đối với giáo xứ.
Hằng năm, Ngài đề ra phương hướng giúp cho toàn thể Giáo xứ sống đạo
bằng cách noi gương Mẹ Maria, Vị Bổn Mạng của ḿnh, để xây dựng Giáo
xứ dần dần trở nên một cộng đoàn yêu thích cầu nguyện, sống đức tin,
tập trung nỗ lực trong các sinh hoạt phụng vụ, chiếu tỏa đức ái bằng
lời nói và việc làm, nhằm phục vụ hạnh phúc của mọi người. Đức Cha
đă xức dầu cung hiến Nhà Thờ Chính Ṭa trong một lễ nghi long trong
sốt sắng với sự tham dự của toàn thể hàng linh mục Giáo Phận, đông
đảo ḍng tu nam nữ và giáo dân của nhiều giáo xứ. Lễ nghi xức dầu
cung hiến này diễn ra sáng Chủ Nhật 24-04-1983.
Được sự chăn dắt của các Chủ Chăn, người giáo dân Dalat đă sớm ư
thức về ơn gọi và chỗ đứng của ḿnh trong Giáo Hội, nỗ lực làm việc
tông đồ và góp phần rất xứng đáng trong công việc xây dựng Giáo Xứ
và phục vụ xă hội. Ngoài ra, nhiều Ḍng tu nam nữ đă sớm hiện diện
trên mảnh đất Dalat này. Có Ḍng đă tới phục vụ từ năm 1919, các tu
sĩ đă góp phần rất lớn trong mọi sinh hoạt của Giáo Xứ, đặt biệt
trong đời sống cầu nguyện, phụng vụ, dạy giáo lư, giáo dục, bác ái,
từ thiện.
Trực tiếp chăm sóc Giáo xứ, từ bước khởi đầu khi Giáo sở được
chính thức thành lập vào năm 1920 cho đến nay, năm 1991, có tất cả 8
linh mục quản xứ:
1. Cha Prédéric Sidot (cố Kính), từ 10-05-1920 đến 01-07-1921
2. Cha Céleste Nicolas (cố Vinh) từ 11-07-1921 đến cuối năm 1946
3. Cha Jean Perrin từ 14-07-1946 đến 1948
4. Cha Fernand Parrel từ 22-04-1948 đến 21-05-1961
5. Cha Giuse Phùng Thanh Quang từ 21-05-1961 đến 28-09-1962
6. Cha Giuse Nguyễn Ngà từ 28 09-1962 đến 30-03-1975
7. Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn từ 01-04-1975 đến 20-06-1991
8. Cha Giuse Vơ Đức Minh từ 20-06-1991 đến nay
Cộng tác mật thiết với các cha xứ để phục vụ Giáo xứ có gần 40
cha phó và nhiều Linh Mục thuộc các ḍng: Chúa Cứu Thế, Vinh Sơn,
Phan Sinh, Chúa Giêsu (Tên), Don Bosco, Đại Chủng Viện Dalat, Giáo
Hoàng Học Viện thánh Piô X.
Trong số các linh mục đă phục vụ Giáo xứ, có những vị được Ṭa
Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục như:
1. Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu,
Giám Mục Giao Phận Vĩnh Long.
2. Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Ḥa, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang.
3. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám Mục Giáo phận Dalat.
Trong quyển rửa tội số I của Giáo Xứ, tại số thứ tự 537, ngày
12-04-1938 có ghi: Petrus Nguyễn Văn Nhơn, sinh ngày 01-04-1938 đă
lănh nhận bí tích rửa tội tại nhà thờ Thánh Nicôla, Dalat. Thật vậy,
Đức Giám Mục đương kim Giáo Phận đă sinh ra tại một ngôi nhà kế cận
Nhà Thờ Giáo Xứ, rồi lớn lên, rước lễ vỡ ḷng, chịu phép thêm sức,
học tṛ giúp lễ, để rồi được Giáo xứ yêu thương, tin tưởng gởi vào
chủng viện Sàig̣n năm 1949. Người là chủng sinh đầu tiên của giáo xứ,
cũng là người con đầu tiên của giáo xứ đă được Đức Cha Simon Ḥa
Nguyễn Văn Hiền truyền chức linh mục cũng tại Nhà Thờ Giáo Xứ, ngày
21-12-1967. Người được Đức Cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm bổ nhiệm
làm cha xứ Nhà Thờ Chính Ṭa, kiêm Tổng Đại Diện Giáo Phận từ năm
1975 đến 1991. Thánh lễ tấn phong Giám Mục được cử hành trọng thể
ngày thứ Ba 03-12-1991 tại Dalat, nhằm lễ kính thánh Phanxicô
Xavier, bổn mạng các xứ truyền giáo. Đây là lễ tấn phong Giám Mục
đầu tiên diễn ra trong Giáo Phận Dalat. Khẩu hiệu của Đức Giám Mục
đương kim là "Người phải lớn lên" (Illum oportet crescere) thể hiện
thao thức và trọn vẹn cuộc đời mục vụ của Người: Rao giảng Chúa
Giêsu, làm chứng cho Chúa Giêsu, làm cho nhiều người nhận biết và
yêu mến Chúa Giêsu.
Trong chiều hướng này, cũng cần nhắc lại một sự kiện đă xảy ra
trong Giáo xứ, là vào đầu tháng 10 năm 1947, có một nữ giáo dân, con
cái của giáo xứ, đă nghĩ đến và chọn con đường dâng ḿnh cho Chúa để
sống đời tận hiến. Đó là chị Têrêxa Nguyễn Thị Thọ sau này trở nên
Mẹ Maria Thánh Thể trong ḍng kín Cát Minh Sàig̣n. Có lẽ đây là khởi
điểm cho nhiều ơn gọi tu tŕ phát xuất trong hàng ngũ con cái của
Giáo xứ: 11 linh mục, trên 10 tu sĩ nam nữ đă khấn trọn đời và
khoảng trên 20 chủng sinh trong chủng viện và các ḍng.
Với niềm tin và nghị lực mới trong tâm t́nh cảm mến tri ân, toàn
thể Giáo Xứ Chính Ṭa Dalat muốn chiêm ngắm một cách đặc biệt Vị Bổn
Mạng của ḿnh là Đức Trinh Nữ Maria, để cùng với Thánh Nicôla các vị
Tông Đồ tiền bối, mỗi người sẽ học với Đức Mẹ, bắt chước Đức Mẹ mà
vững bước tiến lên loan báo và làm chứng về Tin Mừng cứu độ cho anh
em đồng loại của ḿnh.
Nguon:
http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN...uchinhtoa.html
Mời đọc thêm : [
Giáo xứ Chính Ṭa
95 năm thành lập và phát triển ]
|
|