
Lược
sử Giáo xứ Vỉ Nhuế
Sơ Lược Lịch
Sử Giáo Xứ Vỉ Nhuế và Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi
1. Quá tŕnh h́nh thành và phát triển.
Theo sử liệu, vùng đất nơi đây nằm dọc theo vùng uốn lượn của con
sông Đáy nên thơ. Là vùng băi bồi, lau sậy mọc rất nhiều nên ngay từ
thế kỷ thứ VI Triệu Quang Phục đă chọn nơi đây làm nơi ẩn núp để
đánh giặc. Sang đầu thế kỷ XIV, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đă đưa
gia nhân về đây lập ấp và đặt tên cho mấy làng ở đây là Trần Xá Xă.
Sang thế kỷ XVIII, nơi đây là xă Vỉ Nhuế, thuộc huyện Đại An, phủ
Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam.
Vùng này được gọi là Vỉ Nhuế có lẽ để chỉ một băi đất rộng nằm
bên khúc sông uốn lượn. “Nhuế” là bến sông, là băi đất nằm chỗ sông
uốn lượn.
Giáo xứ Vỉ Nhuế ban đầu là một họ lẻ của giáo xứ Kẻ Vĩnh. Nằm bên
cạnh một giáo xứ từng là nôi của các vị truyền giáo đầu tiên tới
Việt Nam và là thủ phủ của địa phận Đàng Ngoài, chắc chắn nơi đây đă
được biết đến đạo Chúa từ rất sớm.
Vùng đất nơi đây đẹp và thuận lợi như nhiều sử liệu nhắc tới nên
đă được các vị thừa sai chọn để xây dựng cơ sở. Trong thời gian c̣n
là họ lẻ của Kẻ Vĩnh, nơi đây có tên là Quảng Nạp. Vùng này là nơi
dễ dàng ẩn nấp nên nhiều vị thừa sai làm việc tại Vĩnh Trị đă chạy
ra đây ẩn khi bị lùng bắt. Chính v́ thế mà làng có tên là Kẻ Nấp.
Trong giai đoạn bị bách hại v́ đạo, nơi đây cũng đă có nhiều chứng
nhân đức tin bị bắt, bị xử tử. Trong số các vị ẩn tại đây, có Đức
Giám Mục Olivier người Pháp đă qua đời tại Kẻ Nấp ngày 27 tháng 5
năm 1827. Giáo dân Kẻ Nấp cũng đă nhiều người chịu chết v́ đức tin,
trong đó có ba vị đă được Đức Giám mục địa phận, Đức Cha Đông (Gendreau),
đệ án lên toà thánh xin phong chân phúc ngày 27 tháng 10 năm 1927.
Ba vị đó là: ông bô Gioan Bùi Văn Qui, chịu xử giảo hay hăm lương
đầu năm 1862; ông Phạm Hoàng Thâu và ông Đào Tiến Huệ, chịu trầm hà
tháng 5 năm 1862. Hiện nay di hài các ngài đang được quàn tại phía
nam trước cửa nhà thờ.
Theo báo cáo thường niên của Hội Thừa Sai Pháp, năm 1906 nơi đây
bị dịch và nhiều người được chữa khỏi nhờ công tác từ thiện của Giáo
Hội. Sau đại dịch này, nhiều người dân Kẻ Nấp đă trở lại đạo. Với số
giáo dân đông đảo, Kẻ Nấp được tách ra khỏi giáo xứ Vĩnh Trị và lập
thành giáo xứ Kẻ Nấp vào năm 1907. Có lẽ cũng v́ lư do nhiều người
được chữa lành dịp đó mà giáo xứ Kẻ Nấp đă chọn Tổng Lănh Thiên Thần
Raphael làm quan thày bảo trợ cho giáo xứ. Bề trên giáo phận đă đặt
Cha già Tất là vị linh mục chính xứ tiên khởi của giáo xứ. Năm 1924
giáo xứ Kẻ Nấp đă có 1990 giáo dân với 1 trường học, 20 học sinh và
3 họ lẻ.
Năm 1951, trong thư chung đề ngày 2 tháng 7
năm 1951 Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê đă quyết định lấy tên
chính phủ dùng để gọi tên giáo xứ nên giáo xứ Kẻ Nấp được đổi thành
giáo xứ Vỉ Nhuế.
Năm 1955, giữa thời khó khăn mọi mặt, Đức Hồng Y Giuse Maria
Trịnh Như Khuê đă về kinh lược tại giáo xứ từ ngày 14 đến ngày 22
tháng giêng. Trong dịp này Ngài đă ban bí tích Thêm Sức cho 77 người.
2. Giai đoạn 1954 đến 1987
Trong biến cố năm 1954, khá nhiều người dân trong xứ đă di cư vào
Miền Nam sinh sống. Số giáo dân c̣n ở lại quê hương phải trải qua
một quăng dài thời gian khó khăn mọi mặt. Khuôn viên nhà xứ trở
thành kho của hợp tác xă, nền tượng đài giữa hồ trước mặt nhà thờ bị
phá bỏ, bà con giáo dân chỉ nỗ lực giữ lại được ngôi thánh đường
không bị xâm phạm.
Sau khi Cha Giuse Trịnh Ngọc Am qua đời ngày 5 tháng 8 năm 1958,
giáo xứ Kẻ Nấp liên tục không có linh mục chính xứ, chỉ có Cha
Dominico Đinh Thành Chung ở Vĩnh Trị rồi đến Cha Giuse Nguyễn Văn
Yến ở Gia Trạng về làm quản xứ. Tuy nhiên, v́ hoàn cảnh khó khăn mọi
bề, ít khi các ngài được về dâng lễ. Trong suốt 30 năm này, mỗi năm
giáo xứ chỉ có hai ba Thánh Lễ, có năm không có lễ nào. Dẫu khó khăn
thế, giáo xứ vẫn duy tŕ các giờ kinh ban sáng và ban chiều. Ngày
Chúa Nhật có ông trùm cử hành Phụng Vụ Lời Chúa.
3. Giai đoạn 1988 đến nay
Khi đất nước bắt đầu biến chuyển đổi mới, đời sống đạo trong giáo
xứ dần dần được khôi phục. Đặc biệt với sự hiện diện của một linh
mục quê hương từ Miền Nam ra, cha ḍng Don Bosco Giuse Nguyễn Tiến
Mỹ. Sau một thời gian đầy gian nan thử thách, cha Giuse đă dần dần
được phép sinh hoạt tôn giáo trong giáo xứ. Mặc dù Cha chỉ về mỗi
năm một hai đợt nhưng cũng đă thổi vào giáo xứ một sức sống đạo, đặc
biệt nơi các bạn trẻ.
Trong giai đoạn này, các linh mục quản xứ gồm có Cha Giuse Hoàng
Kim Cương, Cha phó Gioan Nguyễn Văn Phủ, Cha phó Antôn Trần Duy
Lương, Cha Martino Nguyễn Bá Thỉnh, Cha Augustino Nguyễn Khắc Thành,
Cha Giuse Phan Văn Chỉnh, Cha phó Gioan Nguyễn Văn Hân, Cha Phanxico
Xavie Kiều Ngọc Viên. Cha Phêrô Nguyễn Phú Hùng, Cha Gioan B. Phan
Ngọc Pháp, Cha Phó Giuse Nguyễn Quốc Sỹ.
Trong giai đoạn này, tháng 4 năm 1993 giáo xứ mừng kỷ niệm Kim
Khánh ngôi thánh đường. Đây là biến cố đánh dấu mốc quan trọng trong
sự biến chuyển tốt đẹp của giáo xứ. Năm 1995 giáo xứ xây dựng tượng
đài Đức Mẹ với sự trợ giúp đặc biệt của Cha Giuse Nguyễn Tiễn Mỹ.
Ngày 28 tháng 12 năm 1995, Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng đă
về dâng Thánh lễ ngay trên nền tượng đài Đức Mẹ và ban bí tích Thêm
sức cho 1283 em trong vùng. Ngày 15 tháng 5 năm 1998 Đức Cha phụ tá
Phaolô Lê Đắc Trọng về dâng Thánh lễ và ban bí tich Thêm sức cho 85
em. Tháng 4 năm 1999, giáo xứ khởi công xây dựng nhà pḥng với sự
trợ giúp đặc biệt của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Tháng 6 năm
2000, nhân dịp khánh thành phần một khu nhà pḥng, Đức Cha phụ tá
Phaolô Lê Đắc Trọng đă về dâng Thánh Lễ và ban bí tích Thêm sức cho
1150 em trong vùng.
Hiện nay, giáo xứ Vỉ Nhuế có 3189 giáo dân
với hai họ lẻ là La Ngạn và Đại Duyệt. Họ chính xứ Vỉ Nhuế có 2985
giáo dân nằm kề xung quanh thánh đường, chiếm 95,6 % dân số trong
thôn, với 6 giáp. Giáo xứ có các hội đoàn: hội Mân Côi, hội thánh
Giuse, Ca đoàn, hội Kèn Đồng, 2 hội trống …
Ngôi thánh đường đầu tiên được biết đến là một ngôi nhà theo
phong các Á Đông: cột gỗ, lập dạ, mặt tiền là dạng cổng tam quan ba
tầng bốn mái. Khi xây dựng ngôi thánh đường hiện tại đây th́ phần gỗ
nhà thờ đă chuyển cho giáo họ Đằng Lẻ thuộc xă Yên Hồng, huyện Ư Yên,
hiện nay vẫn c̣n.
Ngôi thánh đường hiện nay được xây dựng và hoàn tất vào năm 1943.
Cha xứ Giuse Trịnh Ngọc Am, quê ở xứ Bút Đông, đă có công rất lớn
trong việc đôn đốc và xây dựng ngôi thánh đường này.
Năm 1947 Cha Xứ Giuse Trịnh Ngọc Am đă đặt tượng Đức Mẹ Mân Côi
lên trước gian cung thánh, nhận tước hiệu ngôi thánh đường là Thánh
Đường Đức Mẹ Mân Côi. Trong dịp này, ca đoàn giáo xứ cũng nhận Đức
Mẹ Mân Côi là bổn mạng. Lúc đó, Thày già Hích, tức linh mục nhạc sỹ
Hoài Đức sau này, về quê giúp xứ đă sáng tác bài hát “Lạy Mẹ Mân Côi”.
Năm 1973 ngôi thánh đường được tu sửa lần một do phần hậu bầu bị
sập.
Năm 1989 đến 1993, ngôi thánh đường được trùng tu bao gồm việc
xây lại cánh gà hai bên và phần tường bên ngoài, sửa ngọn tháp, tô
chát xung quanh, làm trần tôn, lợp tôn mái thượng.
Năm 1994 đến 1995 sửa lại gian cung thánh và đóng ghế ngồi mới.
Năm 2004 sửa gian cung thánh và lợp ngói mái thượng. Năm 2007 tô
chát lại phần trên phía trong nhà thờ, quét ve, sửa gác đàn, mở thêm
cửa hai bên.
Trong dịp trọng đại kỷ niệm 100 năm ngày thành lập giáo xứ, Đức
Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt về cung hiến thánh đường Đức Mẹ
Mân Côi ngày 28 tháng 11 năm 2007.
Nguồn :
http://giaoxuvinhue.blogspot.com/
Chi tiết bổ sung xin gởi về

giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com
|