Tổng Giáo phận Huế

Nhà thờ Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế

 

Nhà thờ Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế
Giáo hạt

 

Địa chỉ :

Chánh xứ : Linh mục

Tel

 

E-mail

 

Năm thành lập

 

Giờ lễ

Chúa nhật     :

Ngày thường :

Các nhà thờ lân cận :  

Tư liệu :  Lược sử  - H́nh ảnh

-  Tin tức sinh hoạt

* Phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Huế hành hương Năm Thánh tại Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế - Ngày 15-10-2009

 

VÀI NÉT LỊCH SỬ SƠ LƯỢC VỀ

HỘI D̉NG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM HUẾ

1. NGUỒN GỐC HỘI D̉NG:

Đức Cha Eugène Marie Joseph ALLYS ( tên Việt là LƯ ), một Giám mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, là một nhà Truyền giáo giàu nhiệt huyết. Ngài vẫn luôn canh cánh bên ḷng nỗi  ưu tư về lớp trẻ cần được giáo dục trong đức tin và thăng tiến về văn hóa. Với sự hướng dẫn của Thánh Linh, Ngài thấy cần phải đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của Giáo phận trước cánh đồng truyền giáo đang lên phơi phới sau khi bảo tố cấm cách đă tạm yên.

Năm 1919, Giáo phận Huế đă có nhiều trường giáo xứ dạy kinh nguyện, nhưng chưa có trường Tiểu học theo đúng nghĩa v́ thiếu giáo viên được huấn luyện chu đáo. Đức Cha định tổ chức một trường Sư phạm để đào tạo một số nữ giáo viên dạy giáo lư và văn hóa. Các giáo viên tương lai này sẽ được đào tạo thành nữ tu. Ngài gọi trường này là Trường Sư phạm các nữ tu bản xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm (École Normale des Sœurs Indigènes de Marie Immaculée) hay c̣n gọi là Trường Sư Phạm Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (Archives des MEP, compte rendu 1919 – 1920, 1920 – 1921). Các Linh mục giáo phận quá lao nhọc với tất cả công việc của giáo xứ, dạy tân ṭng và truyền giáo cho lương dân đang yêu cầu Ngài cung cấp cho họ những cộng sự viên có khả năng để giúp đỡ, nên Ngài cũng thấy nao nức cho công việc mau thành tựu, rộng răi và lâu bền (Lettre au Supérieur de la Mission, 8 Août 1923).

Với vị cộng tác đắc lực là Cha Chabanon (sau này là Giám mục năm 1930), “ Ngài nhất định sáng lập một Hội Ḍng mới có mục đích chuẩn bị giáo viên cho các trường giáo xứ, Hội Ḍng đă được đặt tại làng Phú Xuân gần thành phố Huế, trong vườn của ṭa giám mục cũ đời Đức Cha Lộc (Caspar) ... Ngôi nhà khiêm tốn của Đức Cha được sửa thành nhà nguyện, ba ngôi nhà rrộng răi theo kiến trúc Việt Nam được xây thêm để làm nhà ở, nhà cơm và các lớp học cho các nữ tu”. (Bulletin des MAP, N0 6, Juin 1922, p. 313). Ông Bà Denis Lê Phát An đă cọng tác với Đức Cha Allys rất đắc lực trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho Hội Ḍng mới.

Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ ngày 8 tháng 9 năm 1920 là một ngày lịch sử, ngày khai sinh Hội Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Phú Xuân Huế. Hội Ḍng bởi t́nh yêu đời đời của Thiên Chúa và sự bảo trợ của Đức Trinh Nữ Maria, đă được khai sinh trong thời gian giữa ḷng Đất Mẹ Giáo phận Huế với mục đích rơ rệt và trong một hoàn cảnh thuận lợi.

2. TIỂU SỬ HAI ĐẤNG SÁNG LẬP.

ĐỨC CHA EUGÈNE MARIE JOSEPH ALLYS

SÁNG LẬP D̉NG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM

Đức Cha Eugène Marie Joseph Allys, sinh ngày 12. 02. 1852 trong một xóm đạo xứ Paimpont thuộc Giáo phận Rennes nước Pháp, gần một khu rừng nổi tiếng mà các thi sĩ thường ca tụng. Cha mẹ ngài tuy nghèo nhưng rất đạo đức, gia đ́nh gồm 8 người con trong đó có 2 Linh mục và một nữ tu.

Sau thời gian học ở Paimpont, ngài được gởi tới Tiểu Chủng Viện Saint Méen rồi vào Đại Chủng Viện Giáo Phận Rennes một thời gian ngắn, sau đó được chuyển sang Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris ngày 27. 07. 1872.

Ngày 10. 10. 1875, Thầy Eugène thụ phong Linh mục tại nhà thờ Hội Thừa Sai Paris. Hai tháng sau, ngày 16. 12. 1875  ngài lên đường truyền giáo tại Việt Nam, lúc đó mới 23 tuổi. Đến Huế, Đức Cha Giuse B́nh (Sohier) đặt ngài ở viện Dục Anh coi sóc các trẻ mồ côi, đồng thời làm phó giúp cố Đăng  ( Dangelzer) ở Kim Long để học tiếng Việt với vị thừa sai lăo luyện này từ năm 1876.

Năm 1880, Cha Allys nhận nhiệm vụ cha phó 1 năm ở Giáo Xứ Dương Sơn, sau đó đựoc bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ nầy.

Năm 1885, ngài làm cha sở Giáo xứ Phủ Cam, kiêm Hạt trưởng Giáo Hạt Bên Thủy cho đến khi Ṭa Thánh bổ nhiệm ngài làm Giám mục năm 1908, hiệu ṭa Pharcuse lănh đạo giáo phận Huế.

Lễ tấn phong Giám mục cử hành tại thánh đường  Phủ Cam vào ngày 24. 05. 1908. Ngài lănh đạo giáo phận theo đường lối vị tiền nhiệm và đưa Giáo phận vào giai đoạn phát triển cao. Tầm nh́n của ngài thật là bao quát. Ngài đă bảo trợ việc thiết lập Ḍng Kín Carmel ở Huế (1909) và Đan viện Phước Sơn (1918), để yểm trợ công cuộc truyền giáo bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Ngài mời Ḍng Chúa Cứu Thế từ Canada đến Huế  (1925).

Thao thức truyền giáo đă thúc đẩy ngài vào Chủng viện Thừa Sai, khi giấc mơ truyền giáo đă thực hiện trên đất nước Việt Nam, Giáo phận Huế, ngài khám phá nhu cầu khẩn thiết thực tế cần được đáp ứng : « Hiện thời có vấn đề khác khẩn trương hơn cho tất cả vùng Đông Dương điều mà chúng tôi không thể bỏ qua được, v́ lợi ích cứu rổi các linh hồn đó là vấn đề tư thục... »Ngài ưu tư về lớp trẻ cần được giáo dục trong đức tin và thăng tiến về văn hóa, nên sau khi đă ổn định việc lập Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920) để giáo dục cho giới trẻ nữ, năm 1925 ngài lập Ḍng Anh Em Thánh Tâm để giáo dục giới trẻ nam.

Tinh thần truyền giáo của Đức Cha được xác nhận bởi Thánh Bộ Truyền Bá và Đức Tin, nhân ngày mừng Ngân Khánh Giám mục của Ngài trong lá thư gửi từ Roma ngày 29 thág 4 năm 1933 : « Quả thực không người nào mà không biết Đức Cha đă miệt mài trong công việc tông đồ với ḷng nhiệt thành và hăng say thế nào... Thực sự Đức Cha đă tỏ ra ḿnh là mục tử nhân lành, trở thành mọi sự cho mọi người, và trong thực tế Đức Cha đă luôn măi thực hiện những ǵ vị tông đồ Phaolô đă nói về ḿnh : « Phần tôi, tôi rất vui ḷng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực, lẫn con người của tôi v́ linh hồn anh em » (2Cr 12, 15).

Cuộc sống của ngài rất giản dị và vui tươi. Người ta thường gọi ngài là vị “ Giám mục mĩm          cười ”. Toàn quyền Pasquier ca ngợi ngài : “ ḷng quả cảm không bao giờ tắt nụ cười trên môi, với ḷng nhiệt thành hăng say, với sự lạc quan thổi vào những ngọn lửa chập chờn…” (Diễn văn ngày 14 tháng 7 năm 1921 nhân dịp trao tặng huy chương cho ngài).

Ngài kín múc sức mạnh tông đồ  truyền giáo từ nguồn suối t́nh yêu Thánh Thể. Đức Hồng Y Fumasoni – Biondi ghi nhận trong một bài đăng ở tạp chí Bulletin MEP năm 1932: “Đức Cha tâm sự trong những năm hưu dưỡng: “ Từ nay cuộc sống tôi tóm lại trong cầu nguyện và tôn thờ Thánh Thể, tôi khuyên các cha cũng vậy dùng đến phương thế đó ”. Trước giờ lâm chung, ngài cám ơn và xin lỗi mọi người. Trong tiếng  th́  thào  ngài  nói  lên lời  cuối  cùng : “ Combien je vous aime tous ”, kết thúc cuộc đời tông đồ  như lời Thánh Phaolô kết thúc bức thư gửi cho Giáo đoàn Côrintô : » Tôi yêu thương anh em tất cả trong Chúa Kitô (1Cr 16, 24). » và là âm vang châm ngôn giám mục của ngài : Diligo omnes (Tôi yêu thương mọi người)

Ngài từ giă trần gian ngày 23 tháng 4 năm 1936 hưởng thọ 84 tuổi. 61 năm truyền giáo ở Giáo phận Huế. Ngài được an táng trong nghĩa trang các linh mục tại giáo xứ Phủ Cam. Ngày 6 tháng 8 năm 1986, mộ Ngài được cải táng về Nghĩa trang của Giáo phận tại Thiên Thai Huế.

ĐỨC CHA ALEXANDRE PAUL MARIE CHABANON

ĐẤNG ĐỒNG SÁNG LẬP D̉NG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM

Đức Cha Alexandre Paul Marie Chabanon, xuất thân từ địa phận Mende, sinh tại Antrennes ngày 7. 7. 1873. Ngài là con thứ hai trong ba chị em, một cô gái và hai con trai. Em trai của ngài là Sư huynh Jean Baptiste Ḍng Lasan, đă đến dạy ở trường Pellerin Huế và qua đời tại đó. Ngài đă thừa hưởng những đức tính tinh thần cao đẹp và ḷng đạo đức của người mẹ.

Tháng 10 năm 1891 Ngài vào Đại Chủng Viện Mende, đáp lại lời mời gọi của Chúa âm thầm nhưng mănh liệt, Thầy Alexandre Chabanon cùng với một người bạn đồng chí hướng là thầy Tardieu sau này làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn đến xin gia nhập Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris.

Ngày 28. 6. 1896, Ngài được thụ phong Linh mục và ngày 26. 8 cùng với 8 Linh mục khác rời Paris sang Việt Nam lúc 23 tuổi.

Tháng 9. 1899, Cha Chabanon được bổ nhiệm làm Giám đốc Đại Chủng Viện Phú Xuân.

Năm 1905, ngài làm Cha xứ Tam Ṭa và Hạt trưởng Quảng B́nh.

Tháng 8. 1908 Đức Cha Allys bổ nhiệm ngài làm Cha xứ Di Loan, Cửa Tùng, Quảng B́nh kiêm Hạt trưởng Đất Đỏ và Tổng Đại diện Giáo phận.

Năm 1918, ngài được gọi về làm Bề Trên Đại Chủng Viện. Ngài c̣n linh hướng cho Ḍng Kín Carmel và năm 1920 được Đức Cha Allys giao nhiệm vụ đào tạo các nữ tu đầu tiên Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Ngày 26. 6. 1930, Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục phó với quyền kế vị Đức Cha Allys bị mù ḷa. Lễ tấn phong tại Huế do Đức Khâm Sứ Ṭa Thánh Dreyer chủ phong ngày 28. 10. 1930.

Từ tháng 6. 1931, Đức Cha Allys từ chức, Đức Cha Chabanon thay thế cai quản địa phận. Ngài là vị Giám mục thứ 6 của Giáo phận Huế kể từ ngày biệt lập năm 1850. Trong đời ngài, Ḍng Phước Sơn được thừa nhận vào cộng đồng Xi-tô. Trong các cuộc kinh lư mục vụ, ngài dừng chân nhiều ngày trong mỗi địa điểm để hiểu biết t́nh trạng các cộng đoàn. Ngài chú tâm đến các chức việc trong họ, thăm hỏi các em sắp chịu phép thêm sức và chia sẻ những mệt nhọc của các linh mục giải tội..

Đức Cha  Chabanon là một vị tông đồ nhiệt huyết. Trong các xứ ngài ở, ngài đă thi hành thừa tác vụ của ḿnh với tất cả nhiệt tâm lo giúp giáo dân nên thánh, các chủng sinh của ngài được ngài đào tạo rất vững chắc. Ḍng Phước Sơn lúc mới thành lập đă gặp được nơi ngài một người bạn, một vị bảo trợ, một người hướng dẫn. Hội Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm được ngài huấn luyện đời sống tu tŕ suốt hơn 10 năm. Trường Thiên Hữu mà ngài đă nâng đỡ, cổ vũ từ ngày mới thành lập, minh chứng rằng ngài yêu quí tâm hồn giới trẻ và thao thức sứ mạng giáo dục Kitô giáo. Câu châm ngôn Giám Mục của ngài : « T́nh Yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi »  (Caritas urget nos) và một châm ngôn khác thâm thúy đă trở thành cho quy luật sống cho ngài từ lúc c̣n chủng sinh :  « Yêu thích ẩn dật kể ḿnh bằng không ( Ama nesciri et pro nihilo reputari} ». Ngài luôn luôn yêu thích đời sống ẩn dật, làm việc bổn phận hằng ngày, tiết kiệm thời giờ. Ngài là một linh mục, một giám mục giản dị , hiền ḥa, điềm đạm và luôn luôn kiên vững, giàu nghị lực, thẳng thắn và khiêm tốn. Ngài huấn luyện chị em Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm yêu mến và thông phần Thánh Giá Chúa Kitô trong cuộc sống hằng ngày và yêu mến Đức Mẹ với t́nh con hiếu thảo, chiêm ngắm nét trinh trong của Mẹ và yêu chuộng đức trong sạch. Ngài đă chuẩn bị các chị em sống đời  tông đồ phục vụ trong giáo xứ và dành riêng một chương trong Luật Tiên Khởi để nhấn mạnh những điều quan trọng cho các cộng đoàn nữ tu phục vụ trong giáo xứ.

Ngài ưu tư rất nhiều về việc huấn luyện, hao ṃn v́ công việc tông đồ, không kể ǵ đến sức khỏe, không nghĩ đến bệnh tật của ḿnh. Khi quyết định về Pháp để chữa bệnh theo lời khuyên của Đức Khâm Sứ Ṭa Thánh và nhiều người khác, ngài đă chấp nhận trước cái chết, ngài nói : « Tôi sẽ không tới được Marseille ». Suốt 40 năm, ngài chưa một lần trở về quê hương. Chuyến đi này đưa ngài về Pháp kết thúc cuộc sống trần gian của Ngài và chấm dứt 40 năm truyền giáo một cách âm thầm tại bệnh viện Saint Joseph  thành phố Marseille nước Pháp. Ngài sống nghèo và chết nghèo, xa cách đoàn chiên mà ngài đă tận tụy hy sinh suốt 40 năm như lư tưởng ngài hằng ôm ấp : « yêu thích ẩn dật và kể ḿnh bằng không ».

3. LỊCH SỬ HỘI D̉NG

Trước năm 1920, Đức Cha Allys có ư định lập một trường  sư phạm (École Normale), mà gọi là trường sư phạm nữ tu bản xứ (École Normale des Religieuses Indigènes), đào tạo nữ giáo viên dạy giáo lư và chữ nghĩa, rồi sau đó sẽ biến thành một Hội Ḍng.

Năm 1920, Ngài đă khởi đầu Hội Ḍng bằng cách tách một nhóm nữ tu Mến Thánh Giá Dương Sơn làm như nhóm men đầu tiên của Hội Ḍng mới để thực hiện hoài băo nói trên. Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Phú Xuân (Couvent des Filles de Marie Immaculée de Phú Xuân) đă khai sinh từ đó. Các thiếu nữ gia nhập Ḍng đều được đào tạo qua các lớp sơ học, tiểu học trong trường của Ḍng mà Ngài gọi là trường Sư phạm Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. (École Normale des Filles de Marie Immaculée) với mục đích sau này họ sẽ là nữ tu và  giáo viên.

Trong thư đệ tŕnh Đức Thánh Cha Piô XI, Đức Cha Allys viết : « Tháng 9 năm 1920, con đă tách 6 trinh nữ bản xứ khỏi Hội  các phụ nữ có đời sống chung thuộc quyền địa phận và không có lời khấn, quen gọi là chị em « Mến Thánh Giá » hay « Con cái Mẹ Maria » và nhập lại với nhau thành một nhóm với mục đích cùng các thiếu nữ khác, dần dần từ ngoài thế gian được nhập vào. Họ sẽ sống đời tu cách nhiệm nhặt hơn, rồi sau thời gian tương xứng học hỏi về giáo lư, văn hóa các khoa học đời, họ có khả năng mở trường học trong địa phận Huế. Mục đích thứ nhất chính là dạy các thiếu nữ trong các trường, mục đích thứ hai là cô nhi viện, các sở nữ công, bệnh xá » ( Prot. 579/1931).

Hội Ḍng mới khởi đầu với 6 nữ tu nhỏ bé, đơn sơ nhưng đầy phó thác tin tưởng vào t́nh yêu Thiên Chúa. Ngoài nhóm nữ tu tiên khởi này từ Tu viện Mến Thánh Giá Dương Sơn, một số nữ tu ưu tú khác từ các Phước viện Di Loan, được Đức Cha Allys mời gọi đến hoặc được phép Ngài để gia nhập Ḍng mới. Năm 1923, Cụ Nguyễn Hữu Bài đă xin Đức Thánh Cha, lănh ư của Bộ Tu sĩ và sau đó bàn bạc với Đức Cha Allys để nhóm nữ tu Cổ Vưu ở Viện Dục Anh Phước Môn do Cụ thiết lập có thể gia nhập Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Trước sự phát triển đẹp đẽ của Hội Ḍng, Đức Cha Allys ḷng tràn đầy hy vọng và sung sướng viết về Hội Thừa Sai Paris : «  Ngoài các buổi học, giải trí và các giờ đạo đức thiêng liêng mỗi ngày, các học viên cũng để dành thời giờ để người th́ thêu thùa, người th́ làm len hay dệt lụa, thầy tṛ yêu mến nhau tận t́nh, đến nỗi niềm vui, sự ḥa thuận và hoạt động lan khắp Hội Ḍng làm cho tương lai xem ra có phần chắc chắn, miễn là Chúa Quan Pḥng khấng che chở họ » (Archives des MEP, lettre du 8 Août 1923, tr. 3).

Ngày 24. 8. 1924 tai Nhà Nguyện Ḍng Kín Carmel (v́ Nhà Nguyện của Ḍng quá nhỏ) 11 trinh nữ tiên khởi của Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm được khấn Ḍng lần đầu tiên.

Về việc học hành, Đức Cha Allys rất hănh diện với kết quả kỳ thi tốt nghiệp Sơ Học Yếu Lược. Ngài khuyến khích chị em dự thi bằng Tiểu học Pháp - Việt và tiếp tục đường học vấn để mai ngày có thể đảm nhiệm việc giáo dục thanh thiếu nữ (Archives des MEP, compte rendu 1925 và Bulletin des MEP, Juillet 1925, tr. 437). Ngài mời các nữ tu Ḍng Thánh Phaolô đến dạy văn hóa.

Sau những ngày âm thầm dâng hiến, củng cố đời sống nội tâm, hun đúc khí lực và trau dồi kiến thức, đă đến chị em được t́nh yêu Chúa Kitô thúc bách lên đường, hướng về những lớp người b́nh dân nghèo khổ, đem Tin Mừng cứu rỗi đến cho họ và thực hiện nguyện vọng truyền giáo  của các Đấng Sáng Lập.Không kể trường sơ cấp tại Phú Xuân và cơ sở Phước Môn do Cụ Nguyễn Hữu Bài để lại gồm có trường học, cô nhi viện, nhà thêu may, tháng 3 năm 1927, chị em Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm đă ra đi nhận cơ sở tông đồ đầu tiên của Hội Ḍng mới thiết lập tại Nước Ngọt cách Huế 48 cây số về phía nam.Bước đường thừa sai đang mở ra trước mắt chị em : như Maria, chị em hăng hái lên đường đem Tin Mừng T́nh Yêu cho mọi người. Chính Ngài đă xây cất cơ sở, thành lập bệnh xá, viện cô nhi, viện dưỡng lăo, nhà dạy nữ công gia chánh và trường Tiểu học. Có thể nói, đó là cơ sở tông đồ tiêu biểu đầu tiên của Hội Ḍng diễn tả một cách đầy đủ sứ mạng của Hội Ḍng theo ư hướng Đấng Sáng Lập Ḍng.

Sau gần 10 năm huấn luyện các nữ tu tiên khởi và đă đến lúc chị em sắp khấn trọng đời, ngày 25 tháng 5 năm 1930, Đức Cha Allys tường tŕnh lên Ṭa Thánh  về Hội Ḍng mới để xin Đức Thánh Cha châu phê theo Giáo luật. Năm 1931, Đức Cha Chabanon với tư cách Giám Mục, căn cứ trên sự phê chuẩn của Thánh Bộ Truyền Bà Đức Tin , đă ban Nghị Định Thiết Lập,công bố Hội Ḍng đă được thiết lập theo Giáo Luật. Từ đó, Hội Ḍng tiếp tục phát triển, lập thêm các cộng đoàn và mở trường trong các giáo xứ.

Năm 1936, Hai Đấng Sáng Lập từ giă trần gian đi về Quê Trời, Hội Ḍng rất thương tiếc nhưng vẫn tin tưởng hai Đấng Tổ Phụ tiếp tục cầu bàu và theo dơi  mọi bước đường của con cái đang  trung thành với tinh thần ư hướng của các Ngài. Dù thời điểm rất khó khăn, chiến tranh, đói khát bệnh tật, nhưng các cộng đoàn vẫn tiếp tục lan rộng đến Quảng B́nh. Các chị em sống dưới bom đạn, nhiều lần phải tản cư lên núi, mạng sống lắm lúc bị đe dọa ám sát hoặc chết v́ đại bác, súng đạn,

Sau biến cố Mậu Thân 1968, được phép Đức Tổng Giám mục Giáo phận Huế và Sài G̣n, Ḍng đă tién hành lập một cơ sở đầu tiên ở Xóm Mới, thuộc Giáo phận Sài G̣n năm 1969.

Ngày 24 tháng 8 năm 1969, đáp lời mời gọi của Đức Cha Paul Seitz (Phaolô Kim), Giáo phận Kontum, nhóm đầu tiên gồm 4 chị em t́nh nguyện lên miền truyền giáo Pleiku để phục vụ anh chị em  Jrai : « Đây là lời mời gọi chính thức truyền giáo cho muôn dân mà v́ thế rất đ̣i hỏi, mà tôi, hay nói đúng hơn, chính Chúa gửi đến Ḍng của Mẹ » (Trích thư Đức Cha Paul Seitz gửi cho chị Bề trên Ḍng). Chúa là Cha đầy ḷng thương xót đă mở đường cho chị em dến với anh em nghèo khổ  nhất tại Tây Nguyên.

Các cộng đoàn mới dần dần được thiết lập trong khi v́ hoàn cảnh chiến tranh từ1945 đến 1975 Ḍng phải đóng cửa 35 nhà cộng đoàn nhỏ.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước thống nhất. Các chị em di tản vào Đà Nẵng và Sài G̣n. Bảy chị em di tản ra hải ngoại. Nhà nước sử dụng các cơ sở xă hội và trường học của Ḍng. Bộ đội giải phóng mượn Nhà Mẹ của Ḍng làm khu An Dưỡng. Chị em trở về ở tạm Ḍng Kín Carmel. Chúa có một đường lối đặc biệt cho Hội Ḍng, nhiều cộng đoàn mới xuất hiện ở Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Lộc và các giáo phận khác.

Năm 1976, tái lập các cộng đoàn ở Huế đă đóng cửa trong thời gian chiến tranh. Chị em không quản gian nan, mệt nhọc, sống trong cảnh đơn nghèo lao động. Sau một thời gian các cộng đoàn lần lượt mở lớp mẫu giáo, chị em trở lại với nghề nhà giáo v́ thao thức với sứ mạng giáo dục. Pḥng Khám Từ Thiện bắt đầu hoạt động năm 1992, khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo không phân biệt tôn giáo.

Ngày 13 tháng 12 năm 1994, một ngày đáng ghi nhớ trong lịch sử của Hội Ḍng, ngày trở về Nhà Mẹ sau gần 19 năm cho quân đội mượn sử dụng. Làm sao diễn tả niềm vui lớn được trở về nôi Mẹ ! Việc tái thiết cơ sở bên ngoài tuy quan trọng nhưng nỗ lực của chị em là luôn luôn đặt hàng đầu việc huấn luyện con người dâng hiến để có khả năng đáp ứng nhu cầu loan báo Tin Mừng trong một thế giới nhiều thách đố và phát triển không ngừng.                                                                        

Bước vào ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội một Năm Thánh và lời mời gọi hăy “ Hăy khởi sự từ Chúa Kitô ”. Hội Nghị Ḍng 16 đă đẩy mạnh toàn thể chị em khởi sự lại từ Chúa Kitô, quyết tâm sống Phúc Âm, loan báo Tin Mừng trong tư cách người Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Chị em xác tín Chúa đang đưa Hội Ḍng tiến bước trên con đường mà Chúa Giêsu, Giáo Hội và các Đấng Sáng Lập đă đi là loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó.

Chúa Thánh Thần đă mở đường cho các cộng đoàn mới hiện hiện diện trong các vùng sâu vùng cao. Hội Nghị Ḍng 2001 đă gây ư thức cao độ tinh thần loan báo Tin Mừng trong mọi lănh vực đặc biệt qua giáo dục, y tế xă hội trong 3 môi trường: nông thôn, thành phố, vùng cao vùng sâu.

Hiện nay, năm 2008, Hội Ḍng có 44 cộng đoàn với 353 thành viên trong 3 Giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh. Mẹ Maria là ngôi sao dẫn lối cho Hội Ḍng trong mọi lănh vực. Cùng với Mẹ hát lên bài: “ Linh hồn tôi ngợi khen Chúa v́ Chúa đă đoái thương phận hèn tớ nữ ”.

4. ĐẶC SỦNG

Ơn nhạy cảm đối với t́nh yêu Chúa Kitô, một t́nh yêu thúc bách chị em yêu thương mọi người với sứ mạng loan báo Tin Mừng, đặc biệt qua việc giáo dục giới trẻ. (Ls đ. 2)

5. LINH ĐẠO

T́nh yêu Chúa Kitô thúc bách chị em hân hoan cùng Mẹ tự nguyện bước theo Đức Kitô trên đường Thập Giá để hiến ḿnh trọn vẹn cho Chúa Cha trong sức mạnh của Chúa Thánh Linh, với tinh thần người nữ tỳ của Mẹ Vô Nhiễm: trong sạch, sẵn sàng hiến dâng, vâng phục và khiêm hạ. (Ls đ 3- 6).

Châm ngôn: Này tôi là nữ tỳ Chúa.

6. SỨ MẠNG CỦA HỘI D̉NG

Sứ mạng loan báo Tin Mừng T́nh  Yêu qua việc thương giúp người ta phần hồn phần xác, đặc biệt  sứ mạng giáo dục giới trẻ trong tinh thần Kitô giáo (LTK I, 2; Ls 92).

7. BỔN MẠNG CỦA HỘI D̉NG.

Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8.12

8. ĐỊA CHỈ TRỤ SỞ TRUNG ƯƠNG.

Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm

32 Kim Long - Huế

Điện thoại: 054 528 484/ 054 529 527

Email: vpdong_fmi@yahoo.ca

9. BỀ TRÊN D̉NG:

Nữ tu  Marie Consolata Bùi Thị Bông.

10. CÁC HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM.

Giáo dục giới trẻ về đức tin và văn hóa.

Cộng tác trong công tác mục vụ giáo xứ : dạy giáo lư, hoạt động giới trẻ, nhóm suy niệm, thăm viếng gia đ́nh…

Cư xá bán trú, nội trú học sinh,

Trường Mầm Non

Giúp học bổng cho học sinh và sinh viên..

Công tác bác ái xă hội.

Các cơ sở bảo trợ xă hội trẻ mồ côi, khuyết tật, khiếm thính, cơ sở bán trú t́nh thương.

Phục vụ các anh chị em có hoàn cảnh khó khăn, các anh chị em bệnh phong, các anh chị em sắc tộc vùng cao vùng sâu.

Đào tạo nghề cho thanh nữ : may, vi tính.

Pḥng khám từ thiện tây y, đông y.

Chăm sóc tư vấn trẻ mồ côi, trẻ em và người lớn có HIV tại cộng đồng hợp tác với các tôn giáo bạn.

Bảo vệ sự sống thai nhi.

11. SÔ CỘNG ĐOÀN.

Tại Việt Nam: 44 cộng đoàn trong 11 giáo phận thuộc 3 Giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Hải ngoại: 2 cộng đoàn.

12. NHÂN SỰ.

Tổng số 353 chị em.

Nguồn : SinvienCongGiao.com

 


H́nh ảnh nhà thờ Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm

 

 

 

 

 

 

Creidt of HueVietnam