
Lược
sử Giáo xứ Phủ Cam
Nguồn :
Trang Web Giáo
Phận Huế (6/1/2020)

I- VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ chính ṭa Phủ Cam, Giáo hạt Thành Phố, nằm trên địa bàn
phường Phước Vĩnh (khu vực từ đường Phan Chu Trinh lên đến đường Ngự
B́nh, bao gồm đường Hàm Nghi lẫn đường Trần Phú) và phường Trường An
(khu vực dọc theo đường Điện Biên Phủ, từ cầu Nam Giao lên đến đàn
Nam Giao), thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Một số giáo dân c̣n ở
rải rác các vùng phụ cận như phường An Cựu, phường An Tây, phường
Phường Đúc, phía bắc phường Thủy Dương, phía đông phường Thủy Xuân.
Nhà thờ chính ṭa Phủ Cam tọa lạc ở số 1 đường Đoàn Hữu Trưng, cách
ṭa Tổng Giám mục Huế khoảng 357m theo đường chim bay về phía nam
đông nam[1].

II- NGUỒN GỐC H̀NH THÀNH VÀ QUÁ TR̀NH
PHÁT TRIỂN
Năm 1615, các linh mục Francesco Buzomi và Diego Carvallo (Ḍng
Tên) cập bến Hội An, khai mở công cuộc truyền giáo lần ra phía bắc
Đàng Trong (lănh địa của các chúa Nguyễn), tới miền Thuận Hóa (Huế)
và Dinh Cát (Quảng Trị). Năm mươi năm sau, các linh mục hội Thừa sai
Hải ngoại Paris (MEP) đến tiếp tục công việc rao giảng Tin Mừng.
A- HỌ ĐẠO KHAI SINH
1. Vị quản xứ tiên khởi:
cha Pierre Langlois (1682-1700)
Năm 1659, Đức Thánh cha Alexandre VII ra sắc lệnh cử Đức cha
Lambert de la Motte (1624-1658-1679[2]) làm Đại diện Tông ṭa ở (giáo
phận) Đàng Trong. Nhiều nhà truyền giáo thuộc hội Thừa sai Paris
trong đó có linh mục Pierre Langlois (1640-1700) được gởi sang vùng
này và đến Huế vào năm 1680 dưới lốt một thương gia.
Nhờ có thư giới thiệu của thừa sai Bénigne Vachet (MEP,
1641-1720), cha P. Langlois yết kiến con thứ hai của Hiền vương là
Nguyễn Phúc Thái tức chúa Ngăi sau này (1650-1687-1691) để trao thư
và quà của cha Vachet cho ông pḥ mă và ông Nghè Bộ trấn thủ Hội An.
Nhờ cha Vachet giới thiệu như thế, cha P. Langlois được phép mặc áo
ḍng và được ông hoàng này cấp đất gần phủ chúa để làm nhà thờ, nhà
ở và bệnh xá, v́ ngài biết nghề thuốc.
Năm 1682, cha P. Langlois nhờ một ông hoàng có đạo là Tôma Nguyễn
Phúc Lễ mua đất ở Đồi Đá là nơi dành cho các ông hoàng lập phủ. Ngài
qui giáo dân nghèo Thuận Hóa về ở đây, chia đất cho họ làm nhà và
bày cách làm nón lá để họ có phương tiện sinh sống. Như vậy, giáo xứ
Phủ Cam ra đời trước hết ở mé đồi hoang vu này trong một khu đất
rộng mang cùng tên. Cha P. Langlois xây một nhà nguyện nhỏ bằng đá,
có thể xem như nhà thờ đầu tiên của họ đạo mà ngài là mục tử tiên
khởi.
Vào tháng 12 năm 1682, Đức cha Louis Laneau (1637-1674-1696) Giám
quản Đàng Trong (1679-1682) từ Xiêm qua Việt Nam, đến Huế và thăm
một số họ đạo. Ngài có tới giáo xứ Phủ Cam ở Đồi Đá và ban phép Thêm
sức cho một số giáo dân trong đó có ông hoàng Tôma Lễ. Trong năm này,
cha Langlois đă rửa tội cho gần 2.000 người.[3]
Năm 1687, cha P. Langlois xây nhà thờ đá kiểu cổ và to lớn do tài
chánh xin ở quê nhà và giáo dân đóng góp. Nhà thờ xây trong 3 năm
mới xong và dâng kính Đức Mẹ Xuống Tuyết. Nhà thờ cũ dùng làm bệnh
viện. Ngài c̣n cho xây 4 nhà nguyện tại các vị trí khác nhau v́ có
nhiều người trở lại đạo nhờ công tác y tế miễn phí và nhất là nhờ
ḷng thương yêu chăm sóc bệnh nhân của ngài.[4]
Trong thời gian này, ở phó cho cha Langlois có cha Phanxicô Nho (Vân,
một trong những linh mục Việt Nam tiên khởi được huấn luyện và phong
chức tại Xiêm, trở về nước) từ 1688-1690, cha JB de Cappony từ
1689-1700. Cũng ở phó là cha Chiêu (#1694). C̣n chết tại nhà cha
Langlois ở Phủ Cam là linh mục Tađêô Nghiêm, bạn học với cha
Phanxicô Nho và từng làm mục vụ ở Quảng B́nh. Cha mất năm 1692. (Xem
A. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine I, tr. 378.626).
2- Ṭa Giám mục đầu tiên trên đất Huế
(1691)
Năm 1691, Đức cha Louis Laneau phong cha Francisco Pérez làm Giám
mục Đàng Trong. Đức cha Fr. Pérez (1643-1687-1728) đến Huế, đặt ṭa
Giám mục ở Phủ Cam và chọn cha P. Langlois làm Tổng Đại diện. Ṭa
Giám mục này tồn tại khoảng 8 năm (1691-1698) th́ bị san bằng cùng
với nhà thờ, dưới thời Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1691-1725).
Số là vào năm 1694, nhân lễ bổn mạng thánh Phêrô, cha P. Langlois
mở tiệc mừng, có quan lại, lính phủ chúa và lương dân tham dự đông
đảo. Vụ việc đến tai chúa, một Phật tử đă quy y và chẳng ưa ǵ đạo.
Trước đó, ngày 1-3-1693, chúa có dịp đi ngang giáo xứ Phủ Cam, thấy
cơ sở đồ sộ và giáo dân đông đúc nên đă có ư định sẽ hủy diệt.
B. LỚN LÊN TRONG THỬ THÁCH (1698-1866)
1- Mục tử và giáo dân cùng làm chứng đức
tin
a- Cha Langlois chết rũ tù
Năm 1698, gần dịp lễ Phục sinh, thấy giáo dân tấp nập dự các nghi
thức Tuần thánh, các sư săi liền vu cáo cho giáo dân Phủ Cam tội phá
hoại, đập phá chùa chiền và tượng Phật, lấy cắp đồ cúng. Chúa cho
điều tra và được báo cáo vụ việc hoàn toàn chỉ là vu vạ, nhưng chúa
vẫn nổi giận và ra lệnh triệt hạ thánh đường để giáo dân chẳng c̣n
nơi lui tới đọc kinh dâng lễ. Chúa truyền quan “Hữu Cam” và “Tả
Kang”[5] dẫn lính san bằng nhà thờ của ông Clément de la Croix ở Thợ
Đúc và nhà thờ của cha Langlois ở Đồi Đá, c̣n bản thân cha th́ bị
khủng bố dữ dội.[6]
Tả Kang dẫn 14 suất đội, gồm 700 lính bao vây làng Phủ Cam; một
số đột nhập nhà xứ, bắt trói cha Langlois, xé nát áo ngài và dẫn ra
bờ sông nghe quan đọc lệnh. Người theo xem khá đông, nhiều giáo dân
và lương dân thấy t́nh cảnh của cha đă khóc. Số lính khác th́ lục
soát nhà thờ, nhà xứ, cướp những ǵ có thể, đốt phá sách kinh, tượng
ảnh. Quan cho hay ông được lệnh triệt hạ giáo đường và cấm cha
Langlois giảng đạo, nhưng cha cho biết đó là bổn phận của ḿnh và
sẵn sàng hiến mạng v́ đạo.
Bộ giàn tṛ bằng gỗ của nhà thờ Tả Kang đem về làm của riêng, c̣n
nhà thờ đá th́ bị hủy. Cá nhân cha Langlois, ông bắt nộp phạt 20
ngàn quan để được tự do. Ngài phải nhờ một số bè bạn quyên số tiền
tương đương để nộp. Nhưng về đến nhà th́ Tả Kang cũng ngă bệnh.
Sau đó, ngày 2-11-1698 xảy ra một cơn băo lớn làm tốc mái cung
điện, đổ sập nhiều chùa chiền và gia cư, nhận ch́m nhiều thuyền bè
đánh cá… Minh vương sợ, coi là Trời phạt, nên cho phép dựng lại các
nhà thờ.
Ngày 17-3-1700, chúa Minh lại ra sắc chỉ nghiêm ngặt hơn: phá nhà
thờ, giam các đạo trưởng Gia-tô (linh mục). Theo lệnh này, ở kinh đô
có 4 vị Thừa sai bị bắt là các cha Langlois, Pietro Belmonte (Ḍng
Tên người Ư ?-1700), Giuseppe Candone (Ḍng Tên người Ư 1637-1701)
và Jean-Baptiste de Cappony (Hội Thừa sai người Pháp 1652-1707). Tất
cả bị mang gông và tống vào nhà ngục Phú Xuân.
Cha Belmonte bị giam gần 3 tháng, mắc chứng xuất huyết và từ trần.
Cha de Cappony bị lên án tù chung thân về tội rao giảng Tin Mừng,
nhưng sau đó được trả tự do năm 1704 (mất năm 1707). Cha sở Phủ Cam
Langlois th́ ngày 30-7-1700 chết rũ tù, cổ c̣n đeo gông và chân bị
xiềng lại. Thừa sai Juan Antonio Arnédo (Ḍng Tên, người Tây Ban Nha,
1660-1720) làm giáo sư dạy toán cho chúa nên được tự do, liền xin
chúa cho nhận xác cha Langlois.
Được tin cha P. Langlois qua đời, chúa Minh cấp hai mươi ngàn
quan tiền để chôn cất, lại sai lính đi hầu quan tài và cho phép các
linh mục tham dự lễ tống táng. Nhiều giáo dân cũng có mặt. Ngài được
chôn cất dưới chân bàn thờ của nhà thờ Xóm Đá. Như vậy, cha P.
Langlois được an giấc ngàn thu nơi vườn cũ họ đạo của ngài[7] (nay
là khu vực La Vang).
Trong thư gởi thừa sai Jean Basset (MEP, truyền giáo tại Trung
Quốc), giáo sĩ de Cappony gọi cha Langlois là một kho báu sau 21 năm
phục vụ, v́ ngài gồm đủ các đức tính của một nhà truyền giáo thật sự.
Với tính t́nh ḥa đồng, tế nhị và vui vẻ, sống đời giản dị thanh
bạch, yêu tha nhân, làm việc không biết mệt mỏi, cha Langlois đă lôi
cuốn và chinh phục được nhiều người. Bên cạnh đó, ngoài thần học,
cha c̣n thông thạo La ngữ và các khoa học nhân văn, toán học. Cha
học ngoại ngữ cách dễ dàng, nói được tiếng Thái, tiếng Việt và tiếng
Bồ.[8]
b- Thầy giảng Tađêô Vân với án hăm cốc
(1700)
Trong lần cấm đạo nói trên (17-3-1700), 38 giáo dân kinh đô bị
bắt. Một số lớn chối đạo, chỉ c̣n 6 người trung thành với đức tin.
Trong đó, bốn vị lănh phúc tử đạo, c̣n 2 người kia được tha về. Thừa
sai de Cappony, cũng trong thư gởi cha Jean Basset ngày 22-08-1700,
khi nói về 4 giáo dân can đảm này, đă ví họ như những v́ sao sáng
trên trời, và cho biết một người là thầy giảng của cha P. Langlois.
Họ bị giam trong một cũi gai nhỏ ở cồn Dă Viên, lính canh gác
ngày đêm bên ngoài, không cho ăn uống (án hăm cốc), lại c̣n t́m đủ
mọi cách cám dỗ như bày cơm, mời nước để họ ngă ḷng:[9] “Chúng tôi
sẽ cho các ông tất cả nước sông để uống; các ông sẽ được tự do nếu
bỏ đạo. Tại sao lại tự giam ḿnh đến chết?” Vị thầy giảng dũng cảm
mà Thiên Chúa dành cho chết sau cùng để động viên các người khác, đă
trả lời: “Chúng tôi vui vẻ chấp nhận đề nghị của các ông, nhưng
không phải với điều kiện các ông yêu cầu”.
Trong thời gian mấy vị bị giam, hầu như ngày nào các thừa sai
cũng gửi người đến để khích lệ và nghe ngóng tin tức. Từ sáng đến
tối, cồn Dă Viên chật ních kẻ đến xem hiện tượng chịu khổ h́nh v́
đạo cách lạ lùng như vậy. Những ai đă xuất giáo cũng tới. Từ thành
thị tới nông thôn, mọi người đều đề cập đến các tù nhân đức tin này
và hết sức thán phục.
Mô tả cực h́nh này, thừa sai de Cappony viết: “Nếu họ đau đớn v́
đói bốn mức độ th́ v́ khát đến tám mức độ theo như họ cho biết: mắt
họ không c̣n long lanh, trở nên khô, và lún sâu vào đầu; thân thể họ
chỉ c̣n da bọc xương. Họ kiệt sức dần dần và chẳng c̣n đứng lên ngồi
xuống được; họng và phổi th́ nóng ran đến nỗi hầu như không c̣n nói
được; họ cảm thấy một ngọn lửa cực kỳ lớn khắp thân thể, tưởng như ở
trong một hỏa ḷ, khiến họ phải lấy cát mà phủ lên ḿnh.”[10].
Sau nhiều ngày bị dằn vặt và khổ h́nh, bốn giáo dân trên bắt đầu
sụt giảm sức khỏe và mất cả phán đoán, đến độ một trong những người
trước đây ở với cha de Cappony đă xin được tha tù. Lính tâu lên với
chúa, nhưng khi được yêu cầu đạp lên Thánh giá th́ vị này đă phản
cung và cho biết ḿnh muốn chết hơn là xúc phạm đến Thiên Chúa của
ḿnh.
Theo thừa sai de Cappony, ông này qua đời sau 15 ngày; một vị
khác sau 16 ngày; vị khác nữa sau 17 ngày, và thầy giảng giúp cha
Langlois qua đời cuối cùng, sau 18 ngày. Sau lúc qua đời, xác các
ngài bị cắt thành từng mảnh vụn và đem ném ngoài biển. Trong thư
thừa sai Charles Gouge gởi cho giáo sĩ Gabriel Braud (truyền giáo ở
Trung Quốc) th́ danh tánh bốn vị tử đạo là : Ông Tađêô Vân (thầy
giảng), ông Antôn Kim, ông Vinhsơn Công và ông Phaolô Sô.[11]
Vậy ông Tađêô Vân, người mà cha Gouge gặp ở nhà cha Langlois và
được ngài trước đây có ư định chọn làm linh mục, phải chăng là người
quê quán họ Xóm Đá – Phủ Cam? Nếu đúng, th́ ông là giáo dân Phủ Cam
đầu tiên được hồng ân nhận triều thiên tử đạo.
c- Câu họ Cai Lư với án thảo tượng
(1714)
Từ năm 1700-1715, họ đạo Xóm Đá – Phủ Cam chẳng c̣n nhà thờ v́ đă
bị đập phá như nói ở trên. Trước đây, Xóm Đá tấp nập bao nhiêu, nhờ
có thánh đường, có bệnh xá, người lui kẻ tới, th́ nay vườn không nhà
trống, tiêu điều vắng vẻ bấy nhiêu.
Theo thư cha Langlois, mỗi năm ngài rửa tội từ 500-600 người. Như
vậy trong 18 năm (1682-1700), giáo xứ Xóm Đá – Phủ Cam có ít ra
4000-6000 tín hữu, vậy mà đến thời này chẳng c̣n bao nhiêu. Trong
hoàn cảnh ấy, ông Cai Lư đứng ra qui tụ giáo dân lại, nhường nhà
ḿnh làm nơi đọc kinh hôm sớm. Ông xứng đáng được xem là câu họ đầu
tiên của giáo xứ Phủ Cam. Có thể v́ thế mà ông bị án thảo tượng (bứt
cỏ nuôi voi của chúa) vào tháng 5-1714. Về sau ông được tha.[12]
Theo án này, có từ đời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu, “phạm nhân” bị
khắc Thánh giá trên trán bằng mũi kiếm và mang xiềng ba tao: tṛng
vào cổ xuống rốn rồi chia làm hai, tṛng vào 2 cổ chân[13]. Án kéo
dài đến chúa Định Nguyễn Phúc Thuần (1754-1765-1777), tổng cọng 186
người phải lănh, trong đó có 3 sĩ quan, 3 chủng sinh, và 3 người bị
chết khi thọ án. Ông câu họ đầu tiên Cai Lư đă chia sẻ số phận các
tù nhân thảo tượng nói trên.
Năm 1716, tại Thuận Hóa có 22 người bị án thảo tượng. Vào ngày
thứ năm Tuần thánh năm đó, cha Pierre Heutte, quản xứ Phủ Cam, đă
rửa chân cho 12 vị thuộc số này.[14] Rất có thể trong đó có ông Cai
Lư, câu họ Phủ Cam, bị bắt cách đấy hai năm (5-1714).
2- Vắng chủ chăn lâu dài – Thiếu đoàn kết nội bộ (1700-1719).
Từ năm 1700 đến năm 1715, giáo xứ Phủ Cam không c̣n chủ chăn. Lúc
đó, có cha P. de Sennemand (1646-1730), người Pháp, MEP, từng truyền
giáo 10 năm ở Canada trước khi sang Viễn Đông năm 1693. Năm 1700,
cha bị chúa Minh bắt giam, bị tra hỏi và mang gông xiềng. Năm 1704,
cha được trả tự do.
Lúc mới ra khỏi nhà giam, cha de Sennemand định lên ở khu đất của
cố linh mục P. Langlois tại Xóm Đá – Phủ Cam. Theo mô tả của Đức
Giám mục phó Charles-Marin Labbé (1648-1697-1723) năm 1706, th́ đó
là mảnh vườn rất rộng, có hói nhỏ và hàng rào bao bọc, ở giữa kinh
đô, khá kín đáo và các giáo dân khắp kinh thành đều biết. Nhưng rồi
cha de Sennemand bỏ ư định v́ lời ra tiếng vào của hai cha de
Cappony và Arnédo mà lên ở Thợ Đúc.
a- Thời cha quản xứ Pierre Heutte
(1715-1719)
Tháng 10-1714, một trận băo nổi lên, làm đắm ba chiếc tàu Ḥa Lan
đi từ Nhật, 17 người chết, 87 người sống sót và trôi dạt vào quần
đảo Hoàng Sa. Sau đó họ làm lại được một chiếc và ghé vào Nha Trang.
Lúc bấy giờ, cha Pierre Heutte, người Pháp (không rơ năm sinh) đang
ở tại đây, được nhà chức trách Việt mời đến làm thông ngôn. Nhờ
trong đoàn bị nạn có người nói được tiếng Pháp, tiếng Latinh, nên
hai bên hiểu nhau, và cha Heutte dẫn họ ra Huế vào ngày 1-6-1715. Có
khoảng 6-7 người chết lúc đi đường v́ mệt nhọc đói khát. Lúc đến đây,
cha P. Heutte gặp được người giúp việc của cha de Sennemand ở giáo
xứ Thợ Đúc. Ông này giới thiệu nhà trọ giúp cha và đoàn. Ngài và
đoàn ra Bác Vọng vào phủ yết kiến chúa. Sau khi điều tra, chúa cung
cấp cho người Ḥa Lan tiền (50 quan) và lương thực (10 bị gạo, 20 hũ
mắm) để vào Hội An mà về nước[15].
Riêng cha Heutte được cha de Sennemand khuyến khích ở lại Huế,
nhiều giáo dân cũng đến thăm và bày tỏ nguyện vọng mời ngài lưu lại.
Đáp ứng ḷng ao ước thiết tha của tín hữu Phủ Cam, cha Heutte viết
thư xin Đức cha chính Pérez cho phép. Sau khi được chấp nhận, ngài
làm một nhà nhỏ trên phần đất cha Langlois ở trước đó tại Xóm Đá –
Phủ Cam, và coi sóc giáo xứ này.
Trong thư gởi Đức cha Labbé năm 1716, cha Heutte cho biết ngài
thường lui tới nhà ông Cai Lư vào các dịp lễ trọng và muốn giữ ngôi
nhà này như nơi quy tụ cho những cuộc rao giảng mà ngài cố gắng thực
hiện để truyền giáo. Cũng theo thư ấy, một người tên là Ông Phó (Ou
Pho) có cho dựng một bệnh xá cách Xóm Đá không bao xa và nhiều người
đến xin chữa bệnh. Ông đă dâng bệnh xá này cho ngài[16]. Như vậy,
giáo xứ Phủ Cam trong thời gian vắng linh mục, vẫn duy tŕ hoạt động
bác ái theo gương cha sở tiên khởi.
22 người bị án thảo tượng như nói trên có chiếc ghe dùng đi dọc
sông để bứt cỏ. Cha P. Heutte nhờ các vị này chở đi thăm các họ đạo,
ra tới tận Dinh Cát, Quảng B́nh.
Lúc này đạo c̣n bị cấm nhưng không căng thẳng. Năm 1718, cha P.
Heutte dịch cuốn giáo lư giáo phận Nantes (Pháp) và các h́nh vẽ Kinh
thánh ra chữ Nôm (quốc ngữ thời bấy giờ) để giúp giáo dân đào sâu
đức tin.
Ngày 29-9-1719, cha P. Heutte qua đời sau 4 năm coi sóc giáo đoàn
Huế, đặc biệt giáo xứ Phủ Cam. Theo tường tŕnh của Đức cha
Charles-Marin Labbé cho bề trên các chủng viện MEP năm 1720 th́ lúc
bấy giờ Huế vào mùa mưa và cha P. Heutte gặp mưa sau khi đi truyền
giáo về. Ngài lên cơn sốt nặng và qua đời 4 hôm sau đó. Cha de
Sennemand đang ở giáo xứ Thợ Đúc về ban phép xức dầu. Cha P. Heutte
qua đời trong niềm thương tiếc của mọi giáo hữu. Cha có thân h́nh
nhỏ bé, yếu ớt nhưng siêng năng ngồi ṭa giải tội. Cha thích đọc
sách và viết lách. Ngài là con người rất thánh thiện.[17]
b- Thời cha quản xứ Pierre de Sennemand
(1719-1730)
Lúc cha P. Heutte qua đời, cha de Sennemand từ Thợ Đúc đă về Phủ
Cam thay thế. Nhưng v́ thấy nhà nguyện của vị tiền nhiệm quá nhỏ,
ngài đă mua một khu vườn gần mồ mả gọi là Cồn Mồ và xây nhà thờ tại
đây. Ngài làm nhiều việc bác ái, xă hội, thích hoạt động và ít khi ở
không.
Vào thời của ngài, có thể do địa bàn thuận lợi dễ trốn tránh, v́
vừa gần phủ chúa vừa sát núi rừng, và theo lời mời của Đức cha F.
Pérez, nhiều hội ḍng đă tập trung tại Phủ Cam để truyền giáo. Trong
khoảng thời gian 1715-1730, có 3 nhóm Thừa sai hoạt động độc lập nơi
đây với 4 nhà thờ:
Ḍng Phanxicô với hai cha José de la Conceptión và cha Jéronimo
de la Trinidad người Tây Ban Nha (1718)[18].
Ḍng Bácnabit với hai cha Filippo Cesati và Alessandro di
Alexandris người Ư (1722). Đây là những thừa sai được bộ Truyền bá
Đức tin gởi đi.
Hội Thừa sai Paris với hai cha Pierre de Sennemand và Charles de
Flory người Pháp ở Cồn Mồ, qui tụ một số giáo dân về ở đây. Hội Đức
Bà và hội Tobia ra đời vào lúc ấy (1719).
Sự kiện trên cho thấy vào năm 1719, giáo xứ Phủ Cam phát triển
đáng kể, số giáo dân tương đối đông, và mở rộng địa bàn về hướng Cồn
Mồ. Tiếc là các cơ sở như nhà thờ mà cha de Sennemand xây dựng nay
đều mai một không c̣n để lại một dấu tích nào, dù rất nhỏ.
Năm 1728, Đức cha chính Francisco Pérez mất, Đức cha phó
Alessandro di Alexandris (1691-1725-1738) đă ở Phủ Cam từ 1722, lên
thay thế và muốn các Thừa sai Paris nhường sở Phủ Cam của các vị cho
ngài[19]. Nhưng giáo dân không chấp thuận. Đức cha bèn dùng quyền
đóng cửa nhà thờ của các cha MEP nơi đây (1729).
Cha de Sennemand qua đời tại Phủ Cam ngày 25-1-1730, hưởng thọ 80
tuổi, và được rước lên an táng trong nhà thờ tu viện Mến Thánh Giá ở
Thợ Đúc[20].
Được biết lúc ấy có cha Charles de Flory (?-1733), người Pháp,
cũng thuộc hội Thừa sai Paris, đến truyền giáo vùng Qui Nhơn năm
1715-1717, sau ra Huế. Ngài có ở tại Cồn Mồ cùng với cha de
Sennemand (không rơ từ khi nào) và mất tại Phủ Cam ngày
3-1-1733[21].
V́ có tranh chấp với hội Thừa sai Paris và nhiều ḍng tu khác,
nên năm 1736, Đức cha Alexandris chán nản xin từ chức. Năm sau, Ṭa
thánh phải cử Đức cha Elzéar-François des Achards de la Baume
(1679-1730-1741) làm Khâm sai sang Việt Nam dàn xếp. Ngài đến Đàng
Trong ngày 1-5-1739, sau ra Huế, lưu trú tại ṭa Giám mục ở Phủ cam.
Ngài hoạt động ở Thuận Hóa, Dinh Cát và Quảng B́nh. Ngày 2-4-1741,
Đức Khâm sai từ trần tại Phủ Cam và được an táng tại Thợ Đúc.
Suốt thời gian Đức Khâm sai đến giáo phận, có cha Jean-Antoine de
la Court (1706-#1736-1746) đại diện các Thừa sai Paris (MEP) để cùng
ngài làm việc. Sau khi Đức Khâm sai mất, giáo phận trống ṭa, cha de
La Court được đặt làm cha Chính. Ngài coi sóc Phủ Cam và Thợ Đúc (2
giáo xứ lớn nhất, PC 3000 giáo dân, TĐ 800) cùng nhiều giáo xứ nhỏ
như An Truyền, Đá Hàn, Cầu Hai, Nước Ngọt vv…[22] Ngài cũng làm giám
đốc chủng viện thánh Carôlô ở Thợ Đúc (đầu tiên của Giáo phận) mà
Đức Khâm sai đă lập tháng 9-1940. Tại Phủ Cam, ngài cũng tái lập
bệnh xá do cha Heutte đă gầy dựng mấy năm trước.
Cha de la Court đă qua đời ngày mồng 10-12-1746 tại Phủ Cam, thọ
40 tuổi.
Cũng nên lưu ư là ṭa Giám mục ở giáo xứ Phủ Cam tồn tại đến năm
1744, khi Đức cha Armand Lefèbvre (MEP, 1709-1741-1760), Giám mục
Đại diện Tông ṭa thứ 5 đến Huế và quyết định dời ṭa lên giáo xứ
Thợ Đúc.
3- Bách hại dưới thời vua chúa nhà
Nguyễn và nhà Tây Sơn (1750-1862)
a. Các thừa sai bị trục xuất (1750-1764)
Từ năm 1725-1738, thời cai trị của chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú
(1697-1725-1738), người có nhiều thiện cảm với đạo Công giáo, Giáo
hội được b́nh yên. Tiếp đó, chúa Vơ Nguyễn Phúc Khoát
(1714-1738-1765) kế nghiệp. Ban đầu ông cũng tỏ ra hiền lành, thậm
chí từ năm 1741, đă lần lượt chọn cha Johann Siebert rồi cha Johann
Koeffler (ḍng Tên người Đức) làm ‘thày toán học’ trong triều. Nhưng
tới năm 1750, ông ra sắc lệnh cấm đạo và trục xuất các thừa sai, chủ
yếu là v́ các thương gia ngoại quốc có những hành động xấc ngược,
chọc giận triều đ́nh. Như ông Pierre Poivre, một đại diện của công
ty Đông-Ấn Pháp, v́ không hài ḷng trong việc điều đ́nh, đă bắt
Micae Cường (thông dịch viên và thuộc hạ của chúa) làm con tin.
Vơ Vương ra lệnh tập trung mọi thừa sai, kể cả Đức Giám mục
Armand Lefèbvre, đưa vào Hội An (27-8-1750) rồi trục xuất về Macao.
Từ đó, giáo xứ Phủ Cam bước vào những năm tháng sống đạo không có
linh mục, phải hội họp tại tư gia để đọc kinh cầu nguyện.
Cuộc bách hại chưa nguôi ngoai, giáo dân c̣n lo sợ, phải giữ đạo
cách thầm lặng th́ cuộc nội chiến giữa Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn
(1771-1801) xảy ra, khiến giáo đoàn Thuận Hóa và giáo xứ Phủ Cam
tiếp tục lâm vào cảnh gian khổ.
b- Các mục tử lưu động, chùng lén.
Trong giai đoạn này, năm 1764, Đức cha Guillaume Piguel
(1722-1762-1771) cử cha Marinô Phiên (1731-1763-1884) coi sóc vùng
Thuận Hóa nhưng ngài thường ngụ tại Phủ Cam[23]. Theo một lá thư của
thừa sai Jean Labartette (Giám mục tương lai) viết năm 1779 th́ cha
Marinô c̣n ở tại Thuận Hóa cho đến thời điểm này, cùng với cha
Pierre Halbout[24].
Năm 1776, cha Pierre Halbout (#1733-#1763-1788) được Đức Giám mục
Pigneau de Béhaine (1741-1771-1799) cử đến Thuận Hóa. Ngài ở Thợ Đúc
kiêm Phủ Cam. Theo cha Jean Labartette (thư ngày 01-08-1776), đây là
giai đoạn mà chiến tranh và nạn đói làm chết một nửa dân, và người
ta bày bán thịt người ở chợ. Không c̣n ai nghĩ đến việc bắt người có
đạo[25]. Trong bối cảnh đó, cha Halbout vẫn cố gắng xây dựng các nhà
thờ và phục hồi sinh hoạt giáo xứ Phủ Cam. Ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm
Nguyên tội năm 1780, ngài đă làm phép nhà thờ Thợ Đúc trùng tu. Đầu
năm 1781, ngài cũng làm phép luôn nhà thờ Phủ Cam. (Xem Launay, Sách
đă dẫn, T. III trang 113). Đến năm 1786 th́ ngài bại liệt.
Năm 1786, Cha GB. Nhơn (#1745-#1786-#1819) coi sóc giáo đoàn
Thuận Hóa và thường trú ở Phủ Cam. Đây là giai đoạn Quang Trung xưng
đế (1788-1792), việc đạo chưa có gay cấn ǵ. Sau đó, Nguyễn Quang
Toản lên ngôi (1792-1801), bắt gặp thư Nguyễn Ánh gởi Đức cha
Labartette kêu gọi người Công giáo làm nội ứng, th́ mới ra lệnh bắt
đạo gắt gao kể từ tháng 8 năm 1978. Theo tương truyền, Đức Mẹ hiện
ra tại La Vang vào năm này. Nhiều giáo dân Phủ Cam và kinh đô phải
tản mác lên miền núi.[26] Cha Nhơn mất tại Phú Xuân khoảng năm 1819
v́ bệnh dịch.
Năm 1802, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, xưng hiệu Gia Long
(1802-1820). Đạo tương đối yên b́nh. Trong hoàn cảnh đó, giáo dân
Phủ Cam trở về họ đạo. Nhưng năm 1804, vua ra sắc lệnh không được
sửa chữa và xây dựng nhà thờ mới. Dù vậy, năm 1805, linh mục quản xứ
Nguyễn Phước Kim[27] vẫn mua thêm đất và liều ḿnh dựng nhà thờ kiểu
Việt Nam.
Kế nhiệm cha Kim là cha Phêrô Lê Văn Thật, người Cổ Vưu (Trí Bưu)
được Đức cha Jean Labartette phong chức năm 1814 và sai về Phủ Cam.
Tiếc là cha Thật hồi tục năm 1821, làm thông ngôn cho vua Minh Mạng
với chức “đội”.
Đầu tháng 2 năm 1820, vua Gia Long băng hà, Minh Mạng lên kế vị.
Ông ra 7 sắc dụ bắt đạo liên tiếp: 1825, 1826, 1830, 1833, 1834,
1836 và 1838. Năm 1825, vua chỉ thị giữ cửa biển không cho Tây dương
đạo trưởng vào Việt Nam và lệnh tập trung các giáo sĩ ngoại quốc về
kinh đô Huế năm 1828, bắt ở tại Cung Quán gần Mang Cá, gọi là để
dịch sách. Cha thánh François Jaccard (Phan) đang ở Di Loan phải vào.
Ngài thường qua về Phủ Cam. Lúc đó Phủ Cam đang được cha Anrê Nguyễn
Ḥa An (chịu chức khoảng năm 1803) coi sóc, có lẽ từ 1821. Ngài trợ
lực cha Jaccard nhiều việc cũng như giúp đỡ nhiều vị thừa sai bị tù.
Ngày 17-10-1833 cha thánh Isidore Gagelin (Kính) bị xử giảo ở Băi
Dâu. Một số giáo dân Phủ Cam xin xác ngài và dùng đ̣ chở về Phủ Cam,
cha An tẩm liệm và chôn tại vườn nhà thờ. Cũng năm 1833, vua Minh
Mạng ban dụ cấm đạo và lệnh phá b́nh địa các thánh đường. Nhà thờ
Phủ Cam và nhà xứ bị triệt hạ. Một giáo dân Phủ Cam lên bảng vàng tử
đạo đầu tiên là thánh Phaolô Tống Viết Bường. Ngài bị xử trảm ngày
23-10-1833. Một giáo dân tử đạo khác gốc Kim Long nhưng được an táng
tại Phủ Cam là thánh Anrê Trần Văn Trông, bị xử trảm ngày
28-11-1835. (xem dưới)
Năm 1834, Đức Giám mục Giáo phận Jean-Louis Taberd (Từ,
1794-1827-1840) phải lưu vong ra nước ngoài, vị phó của ngài là Đức
cha Étienne Cuénot (Thể, 1804-1835-1861) kế nhiệm, nhưng cũng phải
sống đời chui nhủi cho tới khi bị bắt. Trong cơn bách hại này, ngày
04-08-1839, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI gửi thư an ủi Giáo hội Việt
Nam.[28]
Ngày 20-1-1841, vua Minh Mạng băng hà, Thiệu Trị lên ngôi
(1840-1847). Ông này chỉ ra một sắc lệnh năm 1847, nội dung nhắc lại
các lệnh cũ của vua Minh Mạng. Không nghiêm khắc dữ dội như nhiều
người tưởng, tuy nhiên nó vẫn gây lo âu, xáo trộn trong các cộng
đoàn Kitô hữu, khơi dậy ḷng tham ‘làm tiền’ của quan lại, cũng như
khơi thêm sự giận dữ của lương dân. Các linh mục giai đoạn này tiếp
tục làm mục vụ lưu động.
Cha thánh Gioan Đoạn Trinh Hoan được phái đến coi sóc giáo đoàn
Thừa Thiên, trong đó có Phủ Cam (1843-1845).
Từ 1845-1846 có cha GB. Bùi Văn Ngôn lưu động vùng Thừa Thiên
cũng thường ghé Phủ Cam để làm mục vụ.
Tự Đức lên ngôi năm 1847 và năm sau bắt đầu cấm đạo. Năm 1848,
làng Phước Quả, nơi có giáo xứ Phủ Cam, được thành lập bởi cụ Phạm
Văn Chung. Cùng năm này, Đức cha phó François Pellerin (Phan) nhờ
thánh Micae Hồ Đ́nh Hy hướng dẫn đi thăm lén lút các họ đạo trong đó
có Phủ Cam. Tháng 3-1849, Đức cha suýt bị bắt ở làng Dương Sơn.
Ngày 27-8-1850, Đức Thánh cha Piô IX ban Sắc chỉ Postulat
Apostolici, thành lập giáo phận Bắc Đàng Trong gồm ba tỉnh Thừa
Thiên, Quảng Trị và Quảng B́nh. Đức cha Pellerin được chọn làm Giám
mục Đại diện Tông ṭa. Cha Joseph Hyacinthe Sohier (B́nh, MEP) được
chọn làm Giám mục phó, nhưng rồi phải đi trốn tại Kẻ Sen, Kẻ Bàng (Quảng
B́nh) nhiều năm trời.
Cha Phêrô Trần Văn Mân làm mục vụ khắp vùng Thừa Thiên
(1851-1853), thỉnh thoảng đến Phủ Cam dâng lễ và ban bí tích giải
tội.
Cha Phaolô Trần Hữu Ninh. Thụ phong linh mục cách bí mật do tay
Đức cha Sohier ngày 17-12-1853 tại nhà ông Thường họ An Vân. Xong đi
làm việc tông đồ ở vùng Thừa Thiên. Thỉnh thoảng ngài ở Phủ Cam,
nhiều nhất ở An Vân trong các nhà có đạo. Phục vụ tới gần cuối năm
1856 th́ phải đổi tên thành Oai, trốn ra Quảng B́nh v́ bị triều đ́nh
truy nă.
Cha Anrê Nguyễn Ngọc Thoại. Chịu chức linh mục xong (1853), ngài
nhận lănh công tác mục vụ các vùng xung quanh Huế. Ngày 6-10-1858,
cha ban phép giải tội cho Thánh Phanxicô Nguyễn Văn Trung, trước khi
ngài chịu xử tử tại An Ḥa. Trong tháng 10-1860, cha lại ngài đến
Khám Đường (ngục giam tử tội) để ban phép giải tội cho Thánh Giuse
Lê Đăng Thị.
Cha Máctinô Nguyễn Văn Thanh từ Qui Nhơn được thuyên chuyển về
Huế. Trong những năm cấm đạo, ngài thường lui tới Phủ Cam
(1858-1862).
c- Các giáo dân tử đạo, tù đày.
Đầu tiên lên bảng vàng các vị tuẫn giáo là thánh Phaolô Tống Viết
Bường, sinh năm 1773 tại Phủ Cam. V́ thuộc ḍng dơi quan lại, nên
khi trưởng thành được chọn làm Thị vệ thăng đến chức Đội và tuyển
vào hoàng cung. Về thánh nhân, cha A. Launay viết: “Ngài được vua
Minh Mạng đích thân biết đến và đánh giá cao. Nhà vua có nói về ngài
rằng: “Ông ấy chu toàn nhiệm vụ với nhiệt t́nh và năng động”. Chức
vụ này không làm ngài quên trách nhiệm của ḿnh là Kitô hữu. Ngài
năng xưng tội và rước lễ, đồng thời rất chăm lo công việc họ đạo của
ḿnh”[29].
Năm 1831, ông được sai đi đánh giặc Đá Vách[30] ở Quảng Nam. Lúc
về được vua hỏi có vào chùa Non Nước lễ bái tạ Phật không, ông cho
biết ḿnh là người Công giáo nên không vào. Vua giận định chém, sau
nghe can gián, truyền đánh 80 roi và giáng làm lính. Năm sau (1832),
vụ Dương Sơn-Cổ Lăo tranh chấp ruộng đất xảy ra, vua bắt lại ông và
11 binh sĩ Công giáo được ông dạy đạo. Năm người sợ nên đă xuất giáo.
Ông và 6 người c̣n lại bị tống vào ngục Trấn Phủ, cổ đeo gông, chân
mang xiềng. Ông bị đánh đ̣n nhiều lần, rách da thịt nhưng vẫn không
bỏ đạo. Sau cùng, vua phê án trảm, đầu bêu ba ngày làm gương.
Chiều ngày 23-10-1833, lính dẫn ông lên pháp trường thôn Thượng
Bốn, Thợ Đúc. Thừa sai Gilles Delamotte kể: “Sau một hồi đi bộ mệt
nhọc, trong hơn nửa tiếng đồng hồ, vị chứng nhân kiên cường tới nơi
hành h́nh và xin đi lên vài bước nữa, tới nơi chính là chỗ nhà thờ (Thợ
Đúc). Ông xin cầu nguyện một lúc. Người ta đồng ư. Quỳ gối và cúi
mặt sát đất, ông ở trong tư thế đó một lúc, đoạn ngước lên và nói
với lư h́nh rằng: “Việc tôi đă rồi”. Người ta bảo ông đứng thẳng,
nhưng ông không đủ sức. Người ta đỡ ông dậy và lúc đó chỉ một nhát
gươm đầu ông rơi xuống”.[31] Thủ cấp ông bị bêu ba ngày ở nhà thờ
Thợ Đúc, thi hài được an táng tại Phủ Cam.[32]
Đến ngày 28-11-1835, một vị tử đạo khác là thánh Anrê Trần Văn
Trông (1814-1835) có cha người Kim Long, mẹ người Thợ Đúc, đă đổ máu
làm chứng Tin Mừng. Cha mất sớm, ngài phải bỏ dở việc học và qua Thợ
Đúc làm thợ dệt năm mới 15 tuổi. Năm 20 tuổi, ngài nhập ngũ. Tháng
11-1834, có lệnh binh sĩ Công giáo phải tŕnh diện. Anrê Trông và 12
bạn đồng đội ra mắt quan. Họ bị buộc đạp Thánh giá, bị tra tấn bỏ
đạo. Lần lượt các bạn đều bỏ đạo, chỉ c̣n Anrê Trông. Ngày
28-11-1835, ngài được phúc tử đạo tại Bắc trường đ́nh (gần Đốc Sơ).
Thủ cấp của ngài được mẹ đem về chôn ở Thợ Đúc, xác th́ được mai
táng tại Phủ Cam (nay c̣n mộ, nằm trên đường Trần Phú, xem dưới),
nhưng sau đó hài cốt được đem qua Rôma.

Năm 1857, thánh Micae Hồ Đ́nh Hy (gốc Nhu Lâm) bị xử trảm tại chợ
An Ḥa, nhưng xác được rước về an táng trong vườn nhà thờ Phủ Cam.
Cả ba vị được Đức Giáo hoàng Lêô XIII phong Chân phước ngày
27-5-1900, và Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II phong Hiển thánh ngày
19-6-1988.
Năm 1859, có sắc dụ bắt các chức việc họ. Tất cả là 98 người
trong đó có nhiều vị thuộc giáo xứ Phủ Cam. Cha Máctinô Thanh nhờ
các bà Phủ Cam bới cơm nước.
Tiếp đó là sắc dụ bắt các quan quân Công giáo. Một trong những
nạn nhân đầu tiên là Chưởng vệ Giuse Lê Đăng Thị, gốc Kẻ Văn. Ngài
bị xử thắt cổ tại chợ An Ḥa ngày 24-10-1860 và thi hài được đem về
Phủ Cam an táng. Nay kính tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế.
Tháng 1-1860, vua Tự Đức ra dụ Phân Sáp và đă áp dụng nó triệt để
vào tháng 8‑1861. Trước đây việc cấm đạo chỉ nhằm vào các linh mục
và chức việc họ, nay liên can đến toàn thể giáo dân. Lệnh Phân Sáp
buộc giáo dân 15 tuổi trở lên bị khắc tự và giam vào các trại của
huyện. Trại giam giáo dân Phủ Cam ở Cồn Cát (Lương Văn, Hương Thủy)[33].
Theo bà Nguyễn Thị Hợi, người Phường Đúc, vợ ông Nguyễn Văn Tài,
một trong những nạn nhân Phân Sáp, th́ trại giam làm bằng tranh, bên
trong đặt từng hàng gông cùm. Đàn ông, đàn bà đều bị xâu lại, xung
quanh nhà giam có hào lớn để lùa người có đạo xuống và chất rơm mà
đốt khi có đạo trưởng xuất hiện trong khu vực. Trước lúc vào nhà
giam, tín hữu bị khắc bên má này 2 chữ “Tả Đạo”, bên má kia tên
huyện, nơi họ bị giam giữ. Đàn ông thường bị đánh, đàn bà ít hơn.
Cha Théodore Bernard (cố Thới 1834-1859-1862, phụ tá của Đức cha
Joseph Sohier), trong tập sách “Những người tuyên xưng đức tin từ
1848-1862 của Bắc Đàng Trong” có nêu tên tuổi và trường hợp tử đạo
của 27 vị thuộc giáo xứ Phủ Cam[34]. Ngoài ra c̣n có những vị bị
khắc tự như: ông Nguyễn Văn Tài, ông Trần Văn Xưa, ông bà nội của
ông Huỳnh Đ́nh Lễ, mẹ của cha Giacôbê Nguyễn Văn Ngọc (Buồng Tằm),
mẹ của cha Phaolô Trương Văn Vân…
Năm 1862, ḥa ước Nhâm Tuất kư giữa triều đ́nh Tự Đức và Pháp có
khoản tự do tín ngưỡng. Luật Phân Sáp chấm dứt.[35] Giáo dân Phủ Cam
được tha về. Từ năm 1862-1864, chỉ có 30 gia đ́nh hồi cư. Mọi sự bắt
đầu lại từ tang thương đổ nát. Số giáo dân từ 1.200 người vào năm
1850 nay xuống c̣n một nửa. Có một số người chết ở Lương Văn được
ông Nguyễn Văn Nghi (Hội Nghi) cải táng năm 1950 và cho xây lăng tử
đạo nay thuộc khu vực Tử Đạo của giáo xứ.
C- CỦNG CỐ VÀ XÂY DỰNG (1866-1974)
Ngày 15-9-1866, cha Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên được Đức cha Joseph
Sohier (B́nh) trao bài sai làm quản xứ Phủ Cam. Đồng thời theo lệnh
vua Tự Đức, ngài c̣n làm giáo sư dạy trường thông ngôn ở Thương Bạc.
Sau cùng, nhà nước Nam triều phái ngài ra ở Hải Pḥng với tư cách
“Tham biện”. Ngài mua lại vườn ông Nguyễn Thuận (trên đó sau nầy,
năm 1925-1926, cha Antoine Stoeffler sẽ xây nhà cha sở). Năm 1880,
ngài đi làm quản xứ Trường An[36].
Ngày 08-08-1867, trong một thông cáo, Đức Cha Sohier cho biết tại
Thừa Thiên có hai phước viện (nhà ḍng Mến Thánh Giá), một ở Phủ Cam
và một ở Dương Sơn. Bắt nguồn từ phước viện Thợ Đúc mà thừa sai
Pierre de Sennemand lập năm 1719 (nhưng chắc lúc đó không c̣n),
phước viện Phủ Cam sẽ phát triển thành 3 nhà lớn tại giáo xứ (mà một
trong ba là nhà mẹ).
Trong giai đoạn từ 1881 đến 1884, giáo xứ Phủ Cam tạm thời trực
tiếp thuộc quyền vị quản xứ Trường An (đổi từ tên Thợ Đúc năm 1850)
là cha Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên cho đến năm 1882, rồi cha Phanxicô
Xavie Trương Văn Thường (1883-1884).
Năm 1885, Đức cha Antoine Caspar (Lộc) đặt cha Eugène-Marie Allys
(cố Lư) làm quản xứ Phủ Cam kiêm quản hạt Bên Thủy (cho đến 1908) (Hạt
Bên Thủy là vùng từ bờ nam Sông Hương đến chân đèo Hải Vân). Trước
đó, khi ngài c̣n làm quản xứ Dương Sơn (1881-1885), th́ ngày
6-12-1883 dân Công giáo vùng Nước Ngọt, Cầu Hai và Truồi đă bị pḥ
mă Cát chỉ huy Văn Thân đánh phá, 35 tín hữu vùng Truồi (trong đó 27
giáo dân Phủ Cam, có lẽ tản cư về thời Phân Sáp) đă phải vong mạng.
Hôm sau (7‑12‑1883) đến lượt Cầu Hai và Nước Ngọt. Cha sở Nước Ngọt
là Giuse Tống Văn Vĩnh (1879-1883) bị chém chết tại chỗ. 27 giáo dân
tử đạo nói trên đă được cải táng vào lễ Giáng sinh 1914 và đem về
Phủ Cam, bia và mộ nay ở khu vực Tử Đạo. (h́nh dưới đây)

Phủ Cam lúc đó có gần 500 giáo dân và giáo hạt Bên Thủy được h́nh
thành từ một ít giáo xứ nghèo mà nhiều xứ đă mất đi một phần mười
trong cuộc bách hại.
Cha Allys can đảm bắt tay vào việc để dựng lại những đổ nát chất
đống do cuộc bách hại; ngài đă làm việc rất tốt đến nỗi vào năm
1910, khi ngài rời nhiệm sở này, giáo xứ Phủ Cam có gần 2.400 giáo
dân sống đạo và cả giáo hạt có hơn 11.000 người.
Các cuộc trở lại này được thực hiện nhất là trong tầng lớp nghèo
khổ. Nhưng không phải chỉ có những ngưởi nghèo mới trở lại; cũng có
các cuộc trở lại trong hàng ngũ cao hơn của xă hội Việt Nam bấy giờ,
và ngay cả trong những phần tử của hoàng gia. Một cháu gái của vua
Minh Mạng là người đầu tiên đến xin trở lại đạo.
Năm Mậu Tuất (1898), cha Allys mua thêm đất và xây dựng lại nhà
thờ Phủ Cam. Đây là nhà thờ thứ 9 kể từ cái đầu tiên bằng tranh tre
ở Xóm Đá. Nhà thờ được xây trên móng đá ngay nơi hiện là thánh đường
chính ṭa. Kinh phí do cha Allys xin từ song thân ngài ở Paimpoint
và giáo phận Rennes (Pháp). Giáo dân tham gia công phụ. Nhà thờ xây
trong 4 năm (1898-1902), dâng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Đến năm
1960, nhà thờ nầy được triệt hạ để nhường chỗ cho một nhà thờ mới.
Đặc biệt dưới thời cha chánh xứ Allys có phong trào truyền giáo
với các phó Trần Bá Lữ (1885-1890, biệt cư Cầu Hai, Nước Ngọt, Hà Úc,
Diêm Tụ), Đôminicô Lê Xuân Biện (1890-1892, biệt cư Vĩnh Lại), Lê
Văn Phẩm (1891-1900, biệt cư Tiên Nộn), Giuse Nguyễn Văn Linh
(1897-1900, biệt cư Nam Phổ), Đặng Văn Dơng (1900-1906) và Phaolô
Nguyễn Văn Huồn (1906-1910). Nhờ đó, đạo được mở rộng đến Dương Nỗ,
Lương Văn, Ḥa Đa, Nam Phổ, Sư Lỗ, Tô Đà, Dưỡng Mong, An Nhơn, Mậu
Tài, Tiên Nộn, Lại Ân, Qui Lai, Kim Ḅng, Cầu Hai…
Từ năm 1892, sổ Rửa tội của Phủ Cam có ghi tên những người gốc
các làng trên. Ngoài các linh mục, nhiều giáo dân cũng đóng góp đáng
kể vào việc truyền giáo này, như cụ Thượng thư Ngô Đ́nh Khả vốn dùng
uy tín và tiền bạc của ḿnh, như ông Phạm Văn Tuấn, con ông Phạm Văn
Hoằng và ông trùm Cơ, con ông trùm Thới từng cơm đùm gạo bị, ngược
xuôi khắp vùng Thừa Thiên ra tới tận Quảng B́nh để dạy chầu nhưng (dự
ṭng) và truyền giáo.[37]
Kế nhiệm là cha Antoine Stoeffler (cố Thể) (1908-1936). Cha
Phaolô Nguyễn Văn Huồn tiếp tục ở phó Phủ Cam, giúp cho ngài
(1908-1910) cùng với cha phó mới là Mátthêô Nguyễn Thanh Bạch
(1908-1910), cha Batôlômêô Phạm Hữu Hội từ năm 1911, cha Phaolô Lê
Quang Tuyến từa năm 1912, cha Phêrô Trần Văn Lượng từ năm 1915, cha
GB Huỳnh Viết Chưởng từ năm 1916, cha Batôlômêô Nguyễn Văn Khâm và
cha Anrê Lê Văn Kiệm từ năm 1918, cha Đôminicô Trần Văn Phú từ năm
1920, cha Đôminicô Nguyễn Văn Trân từ năm 1922, cha Phêrô Nguyễn Văn
Lành từ năm 1927, cha Giuse Đỗ Bá Ấn từ năm 1932, cha Đôminicô
Nguyễn Thanh Chước từ năm 1933, cha Anrê Nguyễn Văn Cần từ năm 1934.
Phủ Cam lúc này đông đúc, nên việc mục vụ bề bộn, lại cũng rất hỗn
hợp, gồm những người mới theo đạo và những tín hữu lâu đời, những
dân thường và những công chức cũng như những vị quan thuộc mọi cấp
bậc.
Nhà thờ và giáo xứ Phủ Cam bấy giờ (1908) trở nên chính ṭa do
quyết định của Đức Cha Allys, vốn đă di chuyển ṭa Giám mục từ Kim
Long về gần Phủ Cam (địa điểm hiện thời) ngay khi nhậm chức. Cha
Stoeffler do đó coi việc làm đẹp nhà thờ là một trong những mối quan
tâm liên tục. Ngài mở rộng cung thánh với những ghế gỗ bao quanh,
dựng một bàn thờ lớn, làm một ghế dựa chạm trổ, một ṭa giảng, đặt
một bàn quỳ rước lễ nghệ thuật. Ngài có được niềm vui thấy Đức cha
Paul-Marie Chabanon (Giáo) thánh hiến ngày 15-11-1931. Sau đó ngài
khởi công xây nhà xứ, cao và rộng được hoàn tất vào giữa năm 1936.
Ngài sắp vào ở th́ bị đau nặng, phải rời công việc mục vụ, đồng thời
từ chức hạt trưởng Bên Thuỷ và Bên Bộ rồi lui về ṭa Giám mục.
Trong thời cha Antoine, ngày 20-05-1925, Đức Giáo hoàng Piô XI
(1922-1939) ra Tông thư “Ex Officio supremo” công bố thiết lập chức
Khâm sứ Ṭa thánh (tức đại diện cho Giáo hoàng bên cạnh các Giáo hội
địa phương) tại Đông Dương và Thái Lan, văn pḥng đặt tại Việt Nam.
Ṭa Khâm sứ (hay c̣n gọi là ṭa Khâm mạng) được đặt tại Huế, kinh đô
nước Việt bấy giờ, ngay tại Phủ Cam là giáo xứ chính ṭa Giáo phận.
Để dâng Ṭa Thánh một ngôi nhà xứng đáng, Quận công Phêrô-Giuse
Nguyễn Hữu Bài nhân dịp này đă dâng cúng sở đất ngọn đồi gần nhà thờ
rồi vận động quyên góp tiền bạc xây cơ sở. Ngày 1-5-1928, Đức Khâm
sứ Constantino Ayuti (người Ư 1876-1925-1928) và các Giám mục đến
Huế làm lễ khánh thành. Đến năm 1951, thời Đức Khâm sứ John Dooley,
ṭa Khâm sứ chuyển ra Hà Nội. Cơ sở tại Huế được giao cho ḍng Mến
Thánh Giá.
Cha André Chapuis (cố Châu) lên làm quản xứ (1936-1949). Ở phó
cho ngài có cha Anrê Nguyễn Văn Cần và cha GB Trần Hữu Quư từ năm
1936, cha P.X. Trương Văn Lương từ năm 1938, cha GB Hồ Đắc Liên từ
năm 1940, cha Giuse Trần Văn Tường từ năm 1941, cha GB Lê Xuân Mừng
từ năm 1943, cha Tađêô Trần Văn Tri từ 1945. Họ đạo Phủ Cam đi vào
đời sống thiêng liêng sâu xa. H́nh thành các hội tông đồ. Tổ chức
chầu giờ thánh. Mỗi ngày chúa nhật, bài giảng của cha xứ là một bài
giáo lư thực sự. Ngài bước dài theo lối giữa ḷng nhà thờ, đặt câu
hỏi, nghe câu trả lời rồi chỉnh sửa cách tế nhị, đôi khi kèm thêm
một chút hóm hỉnh.
Ḷng nhiệt thành với Lời Chúa đó cũng biến cha Chapuis thành tù
nhân tự ư của ṭa cáo giải. Hầu như ngài luôn sẵn sàng ngồi ṭa cho
con chiên: rất sớm vào ban sáng lúc đọc kinh Truyền tin, giữa trưa
và thường trong buổi chiều tối. Ngài lợi dụng điều đó để đào luyện
các tâm hồn sống đạo đức, nâng dậy các lương tâm mù mờ, mang an b́nh
đến cho những người chịu thử thách.
Cha GB Nguyễn Văn Hân, người Nhu Lư, làm quản xứ lần 1 từ năm
1944-1946 kiêm quản hạt Bên Thủy. Ở phó cho ngài có cha Simon Ḥa
Nguyễn Văn Hiền (em ruột, giám mục tương lai) từ năm 1944, cha Giuse
Ngô Văn Trọng từ năm 1946. Phủ Cam lúc này chia làm 4 giáp (xóm):
Đông, Trung, Nam và Tây. Đây là một giai đoạn khó khăn cho ngài và
nhất là khó khăn cho Đức Giám mục Giáo phận François Arsène Lemasle
(Lễ). Ngày 09-03-1945, Nhật đảo chính Pháp, xóa bỏ chế độ thuộc địa.
Đến tháng 8, lại xảy ra cuộc Cách mạng do ông Hồ Chí Minh lănh đạo.
Mọi thừa sai và kiều dân Pháp đều lo sợ. Đức Cha qua đời ngày
29-06-1946.
Cha Phêrô Đỗ Khắc Tuế, gốc Trường An, coi sóc giáo xứ từ
1946-1948, kiêm quản hạt Bên Thủy. Cha Giuse Ngô Văn Trọng và cha
Mátthia Nguyễn Văn Triêm làm phó cho ngài từ năm 1946, cha Antôn
Nguyễn Văn Thọ từ năm 1948. Giáo dân Phủ Cam số đi kháng chiến, số
đi tỵ nạn rồi hồi cư… nhiều biến động xảy ra.
Từ năm 1949-1958, cha GB Nguyễn Văn Hân từ Dương Sơn (nơi ngài
vừa làm quản xứ vừa làm quản hạt Bên Bộ) trở về Phủ Cam làm quản xứ
lần 2, và tiếp tục làm quản hạt Bên Thủy. Ở phó cho ngài là cha
Antôn Nguyễn Văn Thọ từ 1949, cha Đôminicô Nguyễn Văn Nghĩa và cha
Anrê Nguyễn Văn Trúc từ năm 1951, cha Gioakim Nguyễn Tư từ 1952, cha
Mátthêo Trần Thanh Minh và cha Batôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ từ năm
1953, cha Tôma Lê Văn Cầu và cha Phêrô Đoàn Quang Hàm từ năm 1955,
cha Giuse Nguyễn Văn Giáo từ năm 1957.
Cha Phaolô Lê Văn Đẩu, gốc An Vân, kế nhiệm từ 1958 đến 1967. Ở
phó cho ngài có cha GB Bửu Đồng từ năm 1958, cha Emmanuen Nguyễn
Vinh Gioang từ năm 1959, cha Giacôbê Bùi Chung từ năm 1962, cha
Antôn Trần Văn Đức và cha Phaolô Nguyễn Khắc Hiền từ năm 1963, cha
PX Lê Văn Cao từ năm 1964, cha Đôminicô Phạm Hữu Thành và cha Phêrô
Hoàng Thái Ân từ năm 1965. Trong thời cha sở Phaolô, ngày
24-11-1960, y như các Giáo phận Đại diện Tông ṭa khác ở Việt Nam,
Huế trở thành Giáo phận chính ṭa và là Tổng giáo phận, đứng đầu
Giáo tỉnh Huế. Hàng giáo phẩm VN từ nay hoàn toàn gồm các chủ chăn
người Việt. Đức Giám mục Jean-Baptiste Urrutia từ chức, nhường ngai
cho tân Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đ́nh Thục. Năm 1962, theo
lệnh Bản quyền Giáo phận mới, cha Phaolô triệt hạ ngôi thánh đường
cũ do cha Allys xây để khởi sự dựng nhà thờ mới. Nhưng khi ngài rời
nhiệm sở th́ nhà thờ mới xong phần cung thánh. Số giáo dân năm 1964
là 7.658 người.
Cha Batôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ, gốc Mỹ Duyệt (Quảng B́nh) làm
quản xứ từ 1967 đến 1972. Ở phó cho ngài có cha Antôn Vũ Hùng Tôn và
cha Gioan Hồ Hán Thanh từ năm 1967, cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Chế và cha
Đôminicô Nguyễn Thanh Lịch từ năm 1968. Số giáo dân giai đoạn này
lên cao, khoảng 10.000 người. Giáo xứ chia thành 6 khu vực. Tuy
nhiên, khi chiến cuộc Tết Mậu Thân nổ ra (1968), giáo xứ Phủ Cam trở
thành trận địa. Nhiều giáo dân đă phải chạy đến nhà thờ tránh đạn
bom. Từ nơi ấy, đêm mồng 6 Tết, hơn 300 tráng niên và thanh niên từ
15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường
dân hay công chức…. Một năm sau, hài cốt của họ được t́m thấy tại
khe Đá Mài, nằm trong rừng Đ́nh Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Ḥa (nay
là xă Dương Ḥa, thị xă Hương Thủy). Tất cả được đem về quy tập một
chỗ tại nghĩa trang Ba Tầng, trên đường Ngự B́nh, nằm phía Nam thành
phố Huế, Từ đó mỗi năm, ngày Tết là ngày tưởng niệm của rất nhiều
gia đ́nh ở PC.
Cha Phaolô Nguyễn Kim Bính, chánh quán Đại Lộc, trông coi giáo xứ
từ năm 1972 đến năm 1996. Ở phó cho ngài có cha Gioakim Nguyễn Văn
Hùng và cha Phêrô Trần Văn Quư từ năm 1973, cha Giuse Cái Hồng
Phượng từ năm 1974, cha Giuse Đặng Thanh Minh từ năm 1975 đến 1986,
cha Antôn Trần Văn Đức từ năm 1975 đến 1994, cha Phaolô Nguyễn Trọng
từ 1990, cha Bênađô Trần Lương từ 1994. Do biến cố Mùa hè Đỏ lửa
1972, dân chúng vùng Quảng Trị di cư về phía nam. Rất nhiều tín hữu
ngoài đó cũng vào Huế trú ngụ, khiến năm 1974, số giáo dân Phủ Cam
lên tới 12.000 người.
D- TÁI XÂY DỰNG TRONG THỜI H̉A B̀NH
(1975…
Sau năm 1975, một số giáo dân Phủ Cam đi kinh tế mới B́nh Điền,
Nam Đông, A Sao, A Lưới hay vào nam, một số trở về quê cũ ở Quảng
Trị hay ra hải ngoại. Số tín hữu tụt xuống thê thảm, chỉ c̣n hơn
2000 vào năm 1976. Không nản ḷng, cha quản xứ Phaolô tiếp tục việc
mục vụ trong hoàn cảnh mới. Ngài chia giáo xứ thành 12 khu vực, tổ
chức đủ cấp giáo lư (từ thiếu nhi đến trưởng thành), huấn luyện giáo
lư viên có quy củ. Ngài cũng lập nhóm gia trưởng, nhóm hiền mẫu, các
nhóm suy niệm Tin Mừng. Ngài đặt ra chương tŕnh hũ gạo t́nh thương,
ban chung sự hiếu đạo (điểm son cho đến bây giờ). Ngoài ra, ngài
tiếp tục thi công xây dựng nhà thờ (xong phần thân), tổ chức lễ kỷ
niệm 300 năm thành lập Giáo xứ (1682-1982). Năm 1994, ngài được chọn
làm Tổng đại diện, kiêm giáo xứ Phanxicô Xavie. Qua đời tại giáo xứ
này 18-11-1996.
Năm 1996, cha phó Phaolô Nguyễn Trọng, gốc Diên Sanh, lên làm
quản xứ (đến năm 2005). Ở phó cho ngài có cha Đôminicô Nguyễn Tưởng
từ năm 1996, cha Phaolô Trần Thắng Thế từ năm 1999, cha Antôn Nguyễn
Văn Thăng và cha Đôminicô Phan Văn Anh từ năm 2001, cha GB Phạm Quốc
Huy từ năm 2003, cha Đôminicô Lê Văn Quốc Huy và cha Phaolô Hoàng
Nhật từ năm 2004. Cha sở Phaolô cải tổ cơ cấu Hội đồng Giáo xứ; xây
dựng các đài khu vực: Lộ Đức, Thánh Mẫu, Camêlô; tổ chức các phiên
chầu Thánh Thể; hoàn thành xây dựng hai tháp chuông và các công
tŕnh bên trong nhà thờ. Ngày 29-6-2000, nhà thờ Phủ Cam được ĐTGM
Têphanô Nguyễn Như Thể cung hiến dịp mừng kỷ niệm 150 thành lập Giáo
phận (1850-2000).
Cha Tanítlaô Nguyễn Đức Vệ, chánh quán Mỹ Đức (QB), nguyên Tổng
đại diện (1997-2005) coi sóc Phủ Cam từ 2005 đến 2008. Ở phó cho
ngài có cha Đôminicô Lê Văn Quốc Huy và cha Phaolô Hoàng Nhật từ năm
2005, cha Bácnaba Trần Đ́nh Phục từ năm 2007, cha Phanxicô Xavie
Nguyễn Văn Thương từ năm 2008. Ngài tổ chức lễ giỗ lần thứ 70 của
Đức Cha Allys, nguyên quản xứ Phủ Cam, xây dựng tượng đài của vị
Giám mục năm 2006. Tổ chức lớp Chuẩn bị Hôn nhân cho giáo hạt Thành
Phố trong cùng năm. Trùng tu nhà xứ năm 2007. Mở Năm thánh nhân dịp
kỷ niệm 100 năm giáo xứ Phủ Cam được nâng lên chính ṭa, với sự cho
phép và chúc lành của ĐTC Bênêđictô XVI.
Cha Antôn Dương Quỳnh (2008-2015). Tổng đại diện TGP Huế năm
2012. Ở phó cho ngài có cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thương và cha
Benêđíctô Ngô Văn Hài từ năm 2008, cha Giuse Lê Văn Hồng từ năm
2010, cha Antôn Nguyễn Như Hùng Dũng và cha Giuse Hồ Sĩ Hiếu Trung
từ năm 2012. Cha sở Antôn xây dựng nhà Mục vụ Giáo xứ to lớn, khang
trang và xinh đẹp (Ngày 27-6-2010, ĐTGM Têphanô Nguyễn Như Thể đặt
viên đá đầu tiên; ngày 7-10-2014 ĐTGM Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng
khánh thành). Tổ chức phụng vụ đi vào nề nếp.
Cha Antôn Nguyễn Văn Tuyến, gốc Hà Úc, làm quản xứ từ 2015 kiêm
quản hạt Thành Phố. Ở phó cho ngài có cha Đôminicô Nguyễn Hữu Khôi
từ năm 2015, cha GB Phan Ngọc từ năm 2017, cha Đôminicô Phạm Linh
Quyền và cha PX Nguyễn Ngọc Triều từ năm 2018, cha Simon Trương Duy
Lam từ năm 2019. Cha sở Antôn xây dựng và khánh thành hang đá
Đức Mẹ tháng 6-2016; khánh thành tượng đài thánh Giuse; đúc
bê-tông hai thánh giá trên 2 tháp nhà thờ. Ngài cũng tổ chức lễ
nhậm chức TGM Tổng Giáo phận Huế của Đức cha Giuse Nguyễn
Chí Linh ngày 12-1-2017 tại nhà thờ chính ṭa. Cũng tại đây, ngày
01-01-2020, ngài tổ chức lễ khai mạc Năm thánh mừng kỷ niệm 170 năm
thành lập Giáo phận (1850-2020) dưới quyền chủ tọa của Đức Tổng Giám
mục Giuse.
E. TỔNG LƯỢC CÁC VỊ QUẢN XỨ VÀ KIÊM
NHIỆM
1) Pierre Langlois (1682-1700)
2) Pierre Heutte (1715-1719)
3) Pierre de Sennemand (1719-1730)
4) Charles de Flory (1730-1733)
5) Jean-Antoine de la Court (1739-1746)
6) Marinô Phiên (1764-1776). Kiêm nhiệm.
7) Pierre Halbout (1776-1786). Kiêm nhiệm.
8) GB Nhơn (1786-1800). Kiêm nhiệm.
9) …. Nguyễn Phước Kim (1805- ?)
10) Phêrô Lê Văn Thật (1814-1817)
11) Anrê Nguyễn Ḥa An (1818- ?). Kiêm nhiệm.
12) Gioan Đoạn Trinh Hoan (1843-1845). Kiêm nhiệm.
13) GB Bùi Văn Ngôn (1845-1846). Kiêm nhiệm.
14) Phêrô Trần Văn Mân (1851-1853). Kiêm nhiệm.
15) Phaolô Trần Hữu Ninh (1853-1856). Kiêm nhiệm.
16) Anrê Nguyễn Ngọc Thoại (1853-1860). Kiêm nhiệm.
17) Martinô Nguyễn Văn Thanh (1850-1862). Kiêm nhiệm.
18) Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên (1866-1880).
19) Eugène Marie Allys (cố Lư) (1885-1908).
20) Antoine Stoeffler (cố Thể) (1908-1936).
21) André Chapuis (cố Châu) (1936-1949).
22) GB Nguyễn Văn Hân (1944-1946) lần I.
23) Phêrô Đỗ Khắc Tuế (1946-1948).
24) GB Nguyễn Văn Hân (1949-1958) lần II.
25) Phaolô Lê Văn Đẩu (1958-1967).
26) Batôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ (1967-1972).
27) Phaolô Nguyễn Kim Bính (1972-1996).
28) Phaolô Nguyễn Trọng (1996-2005).
29) Tanítlaô Nguyễn Đức Vệ (2005-2008).
30) Antôn Dương Quỳnh (2008-2015).
31) Antôn Nguyễn Văn Tuyến (2015…):
III- HOA QUẢ ĐỨC TIN
1- Hồng y, Giám mục và Linh mục chánh quán và trú quán Phủ Cam
Stt |
Tên thánh |
Họ và tên |
Năm sinh – Thụ phong- Qua đời |
Bị chú |
1 |
Giuse |
Hồ Văn Hương |
……-1813-…… |
Kẻ Sen, qua đời: Mỹ Hương
Hương |
2 |
P.X. |
Nguyễn Văn Đạt |
1818-1849-1889 |
|
3 |
Đôminicô |
Nguyễn Văn Thân |
1823-1850-1853 |
|
4 |
Gioan |
Nguyễn Ḥa Hưởng |
1823-1853-1861 |
|
5 |
Têphanô |
Phạm Văn Cẩm (Kim) |
1826-1854-1861 |
|
6 |
Phaolô |
Lê Viết Luận |
1832-1872-1925 |
|
7 |
G.B. |
Tống Viết Cơ |
1839-1871-1886 |
Cháu Th. Tống Viết Bường |
8 |
Micae |
Huỳnh Đ́nh Thông |
1839-1875-1883 |
|
9 |
Phaolô |
Trương Văn Vân |
1847-1884-1930 |
|
10 |
Phaolô |
Phạm Ngọc Chiếu |
1876-1906-1958 |
|
11 |
Giuse |
Trần Văn Trang |
1882-1910-1945 |
|
12 |
Matthêô |
Nguyễn Linh Giáo |
1882-1912-1950 |
|
13 |
Phaolô |
Bùi Thông Tuần |
1887-1918-1936 |
|
14 |
Giacôbê |
Nguyễn Linh Kinh |
1893-1922-1955 |
|
15 |
G.B. |
Trương Đ́nh Thắng |
1894-1924-1975 |
Anh Đan phụ Tr. Đ́nh Vang |
16 |
Phêrô (TGM) |
Ngô Đ́nh Thục |
1897-1925-1985 |
|
17 |
Tanitlaô (Viện phụ) |
Trương Đ́nh Vang |
1906-1936-1972 |
|
18 |
Phêrô |
Huỳnh Đ́nh Kinh |
1908-1938-1977 |
|
19 |
Lôrensô |
Trần Văn Đàng |
1909-1963-1976 |
Ḍng Thánh Tâm |
20 |
G.B. |
Bửu Đồng |
1912-1941-1969 |
Anh cha Hiệp |
21 |
Raphaen |
Bửu Hiệp |
1914-1945-1988 |
|
22 |
Phaolô |
Nguyễn Thanh Tiếp |
1919-1950-2011 |
Anh cha Tiên |
23 |
Phanxicô Xavie |
Trần Văn Cần |
1919-1951-1993 |
|
24 |
Alêxi (Giám mục) |
Phạm Văn Lộc |
1919-1951-2011 |
Giáo phận Kontum |
25 |
Giacôbê (Đức Ông) |
Phan Văn Đài |
1920-1948-1992 |
|
26 |
Giêrađô |
Phạm Anh Thái |
1922-1948-2002 |
Ḍng Phanxicô |
27 |
Phaolô |
Nguyễn Thanh Tiên |
1925-1951-2006 |
|
28 |
Gioan Hoan |
Nguyễn Hữu Vịnh |
1925-1970-2018 |
Ḍng Thánh Tâm |
29 |
Ph. Xavie (Hồng y) |
Nguyễn Văn Thuận |
1928-1953-2002 |
|
30 |
Guillaume |
Phạm Trung Tá |
1928-1956-……. |
D. Thiên An. Hồi tục (1975) |
31 |
Đanien |
Nguyễn Thăng Cao |
1927-1957-2004 |
Ḍng Phanxicô |
32 |
Giacôbê |
Nguyễn Văn Mỹ |
1932-1959-……. |
Hồi tục (1972) |
33 |
Phêrô |
Vơ Vinh Phước |
1936-1967-…….. |
Ḍng Chúa Cứu Thế |
34 |
Phaolô |
Trần Văn Quang |
1945-1976-……… |
Ḍng Chúa Cứu Thế |
2- Linh mục đang phục vụ tại các Giáo phận
a. Tại Giáo phận Huế
Stt |
Tên thánh / Họ và tên |
Sinh ngày |
LM. ngày |
Quê quán |
1. |
Giuse Trần Văn Lộc |
01.01.1936 |
28.04.1962 |
Phủ Cam (hưu) |
2. |
Louis Nguyễn Văn Bính |
28.09.1937 |
21.12.1963 |
Phủ Cam (hưu) |
3. |
Anrê Nguyễn Văn Phúc |
16.10.1943 |
21.12.1972 |
Phủ Cam (hưu) |
4. |
Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ |
23.09.1948 |
04.04.1975 |
Phủ Cam |
5. |
Giuse Trần Văn Quư |
19.08.1946 |
20.08.1997 |
Phủ Cam |
6. |
Giuse Nguyễn Văn Chánh |
08.01.1949 |
29.04.1975 |
Phủ Cam |
7. |
G.B. Phạm Ngọc Hiệp |
20.03.1949 |
29.04.1975 |
Phủ Cam (hưu) |
8. |
Phêrô Phan Văn Lợi |
09.03.1951 |
21.05.1981 |
Ngọc Hồ |
9. |
P.X. Nguyễn Văn Cần |
30.08.1953 |
01.09.1994 |
Phủ Cam |
10. |
Micae Hy Lê Ngọc Bửu |
25.01.1957 |
20.08.1997 |
Phủ Cam |
11. |
Phêrô Phạm Ngọc Hoa |
01.08.1957 |
07.09.2000 |
Tam Toà, QB |
12. |
Vinhsơn Lê Phú Ngọc Trăn |
24.01.1964 |
29.06.2001 |
Phủ Cam |
13. |
Giócgiô Nguyễn Thành Phương |
02.06.1966 |
30.10.2003 |
Lệ Thuỷ, QB |
14. |
Micae Phạm Ngọc Hải |
01.12.1969 |
29.06.2001 |
Tam Toà, QB |
15. |
Matthêô Trần Nguyên |
10.09.1975 |
04.06.2009 |
Phường Tây |
16. |
Đôminicô Lê Duy Khánh |
24.08.1978 |
04.09.2012 |
Tân Sơn |
17. |
G.B. Trần Sơn Lâm |
15.08.1978 |
04.09.2012 |
Phủ Cam |
18. |
Gioan Bosco Trần Anh Thao |
29.08.1984 |
08.09.2016 |
Phường Tây |
19. |
Phaolô Đào Ngọc Duy |
14.11.1985 |
28.08.2019 |
Phủ Cam |
20. |
Mátthêô Trần Bảo Minh |
12.09.1986 |
22.05.2018 |
Phủ Cam |
b. Tại các giáo phận và ḍng tu trong nước
Stt |
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
LM |
Hiện thuộc
Giáo phận – Ḍng tu |
1. |
Phaolô Bùi Thông Giao |
1937 |
1965 |
Ḍng Chúa Cứu Thế Sài G̣n |
2. |
Irênê Ng. Thanh Minh |
1945 |
1971 |
Ḍng Phanxicô Sài G̣n |
3. |
Camilô Trần Văn Phúc |
1945 |
1971 |
Ḍng Phanxicô Nha Trang |
4. |
Phaolô Ng. Đ́nh Ngọc |
1946 |
1974 |
Ḍng Phanxicô Nha Trang |
5. |
G.B. Trần Quang Hào |
1948 |
1994 |
Ḍng Chúa Cứu Thế Sài G̣n |
6. |
Louis M. Nguyễn Ngọc Thanh |
1950 |
1976 |
Giáo phận Đà Lạt |
7. |
Aug. Nguyễn Văn Huệ |
1957 |
2001 |
Ḍng Xitô Phước Sơn, Bà Rịa-VT |
8. |
P.X. Trần Văn Hân |
1958 |
1997 |
Ḍng Chúa Cứu Thế Sài G̣n |
9. |
Matthêô Ng. Quang Tuấn |
1959 |
1998 |
Giáo phận Mê Thuột |
10. |
G.Baotixita Bùi Bá Tam Quang |
1972 |
2003 |
Giáo phận Sài G̣n |
c. Ở hải ngoại
Stt |
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
LM |
Hiện ở |
1. |
Anrê Nguyễn Văn Lành (Samran) |
1940 |
1971 |
Thái Lan |
2. |
Alêxi Trần Đức Hải, Phanxicô |
1948 |
1975 |
Đài Loan |
3. |
Giuse Trần Anh Dũng |
1950 |
1983 |
Pháp |
4. |
Anrê Nguyễn Văn Chiến |
1953 |
1997 |
Hoa Kỳ |
5. |
P.X. Cao Minh Dung, Đức ông |
1955 |
1983 |
Italia |
6. |
Gioakim Nguyễn Văn Diệu |
1955 |
1990 |
Hoa Kỳ |
7. |
Micae Trần Xuân |
1955 |
1993 |
Hoa Kỳ |
8. |
P.X. Trần Văn Hân, DCCT |
1958 |
1997 |
Hoa Kỳ |
9. |
Phaolô Nguyễn Văn Chửng |
1959 |
2000 |
Hoa Kỳ |
10. |
Tađêô Bùi Công Hiển Linh |
1961 |
2003 |
Hoa Kỳ |
11. |
Batôlômêô Nguyễn Xuân Hoà |
1962 |
1998 |
Hoa Kỳ |
12. |
Giuse Nguyễn Ngọc Sơn |
1962 |
1993 |
Úc châu |
13. |
Phêrô Nguyễn Xuân Linh |
1969 |
1997 |
Hoa Kỳ |
14. |
Phêrô Bùi Công Minh |
1970 |
2001 |
Hoa Kỳ |
15. |
Giuse Nguyễn Hữu Tâm |
1982 |
2015 |
Hoa Kỳ |
3- Nữ tu chánh quán / sinh quán Phủ Cam
* Ḍng Mến Thánh Giá Huế
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Khấn ḍng |
Qua đời |
Bị chú |
1. Bà Chương |
|
|
1885 |
Văn Thân giết |
2. Bà Nữ |
|
|
1885 |
|
3. Chị Hiệp |
|
|
1885 |
|
4. Chị Khương |
|
|
1885 |
|
5. Chị Trước |
|
|
1885 |
|
6. Chị Tân |
|
|
1885 |
|
7. Chị Thu |
|
|
1885 |
|
8. Chị Nẫm |
|
|
1885 |
|
9. Isave Công Nữ Ấu Ấu |
25-11-1869 |
19-03-1897 |
07-04-1948 |
|
10. Anna Nguyễn Thị Giả |
25-12-1894 |
03-12-1924 |
18-03-1968 |
|
11. Maria Trương Thị Nhẫn |
15-08-1895 |
21-11-1916 |
29-06-1970 |
|
12. Anna Đỗ Thị Xuân |
16-12-1906 |
18-03-1978 |
26-06-2006 |
|
13. Anna Hoàng Thị Liễu |
15-05-1916 |
22-07-1970 |
1972 |
MTG Di Loan |
14. Maria Nguyễn Thị Thừa |
23-07-1916 |
03-06-1972 |
28-03-1998 |
|
15. Anna Bùi Thị Liễu |
13-05-1922 |
14-01-1967 |
30-01-2002 |
MTG Trí Bưu |
16. Luxia Bùi Thị Sa |
02-01-1925 |
08-12-1987 |
2002 |
MTG Trí Bưu |
17. Isave Nguyễn Thị Sâm |
06-08-1927 |
14-07-1976 |
04-07-1980 |
|
18. Anna Trần Thị Nhơn |
16-09-1930 |
26-07-1950 |
07-02-2010 |
|
19. Matta Lê Thị Mầu |
07-03-1934 |
26-06-1977 |
21-10-2010 |
MTGDươngSơn |
20. Mađalêna Trương Thị Ái Liên |
24-09-1981 |
18-06-2010 |
30-05-2019 |
|
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Tiên khấn tuyên hứa |
Canh tân-Vĩnh khấn |
Bị chú |
1. Uxula Phạm Thị Mai |
22-10-1924 |
14-09-1945 |
31-07-1968 |
|
2. Mad. Trương Thị Lư |
12-04-1925 |
14-09-1945 |
07-06-1965 |
hưu |
3. Luxia Huỳnh Thị Đào |
22-03-1932 |
20-02-1949 |
30-06-1971 |
MTG Bà Rịa |
4. Maria Bùi Thị Lành |
20-06-1933 |
24-02-1953 |
22-07-1970 |
|
5. Anna Bùi Thị Mai Anh |
10-03-1949 |
15-07-1972 |
12-09-1981 |
|
6. Maria Nguyễn Thị Tiệp |
12-04-1950 |
|
02-02-1986 |
MTG Ph.Thiết |
7. Anê Lê Thị Diệp |
26-07-1950 |
15-07-1972 |
13-09-1982 |
|
8. Matta Vơ Thị Mai |
13-10-1957 |
13-09-1982 |
12-09-1990 |
|
9. Anê Phan Thị Phú |
09-08-1959 |
13-09-1984 |
12-09-1992 |
|
10. Maria Lê Thị Ánh Tuyết |
09-12-1960 |
26-07-1986 |
09-12-1992 |
|
11. Mad. Nguyễn Thị Thanh Thúy |
13-11-1963 |
13-09-1982 |
12-09-1992 |
|
12. Isave Huỳnh Thị Diệp |
07-08-1963 |
31-08-1989 |
19-03-1997 |
|
13. Maria Goretti Ng. Thị Ngọc Lan |
26-03-1965 |
14-09-1993 |
14-09-2000 |
|
14. Maria Phan Thị Thu Hồng |
03-03-1970 |
14-09-1996 |
14-09-2005 |
|
15. Luxia Trần Thị Linh Ái |
25-10-1984 |
19-06-2009 |
15-06-2015 |
|
16. Maria Nguyễn Thị Thanh Linh |
26-10-1985 |
14-06-2009 |
15-06-2015 |
|
* Ḍng Con Đức Mẹ Đi Viếng
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Tiên khấn |
Vĩnh khấn |
Bị chú |
1- Agnès Nguyễn Thị Điều
|
10-10-1909 |
21-11-1938 |
21-11-1944 |
K.khánh: 31-5-1988. Mất: 28-09-1991 |
2- Madalena Phan Thị Phước
|
11-12-1910 |
02-02-1943 |
02-02-1949 |
Kim khánh: 1993
Mất: 24-03-2002 |
3- Anna Lê Thị Nhẫn
|
21-11-1912 |
21-11-1938 |
21-11-1944 |
K.khánh: 31-5-1988. Mất: 25-06-1988 |
4- Anna Nguyễn Thị Phương |
11-01-1920 |
02-02-1941 |
02-02-1947 |
Mất: 04-12-1968 |
5- Maria (Albert) Tống Thị Lành |
24-09-1922 |
02-02-1944 |
02-02-1950 |
Kim cương: 26-02-14. |
6- Elisabeth Công Tằng Tôn Nữ Tuyệt Diệu (Raphael) |
05-12-1925 |
02-02-1947 |
02-02-1953 |
Ngọc khánh: 22-8-2007. Mất: 2014 |
7- Anna Lê Thị Thanh Mai |
12-12-1945 |
02-07-1966 |
02-07-1972 |
Mất: 22-06-1990 |
8- Lucia Nguyễn Thị Vân |
15-04-1955 |
04-06-1978 |
31-05-1987 |
Ngân khánh: 21-8-03 |
9- Têrêxa Trương Thị An |
01-01-1955 |
03-06-1979 |
30-05-1987 |
Ngân khánh: 21-8-04 |
10- Matta Nguyễn Thị Ngọc |
16-4-1957 |
01-06-1980 |
21-11-1989 |
Ngân khánh: 22-8-05 |
11- Maria Nguyễn Thị Minh Phúc |
10-02-1964 |
25-03-1988 |
21-08-2003 |
|
12- Anna Ng. Thị Thiên Trang |
11-06-1970 |
22-08-1997 |
21-08-2003 |
|
13- Anna Trương Thị Kim Anh |
08-12-1971 |
22-08-1996 |
22-08-2002 |
|
14- Rosalima Ng. Thị Vân Anh |
06-02-1985 |
20-07-2011 |
|
|
15- Ma. Trương Trần Diễm Châu |
15-10-1987 |
19-07-2014 |
|
|
* Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm
Họ và Tên |
Năm sinh |
Tiên khấn |
Vĩnh khấn |
Bị chú |
1- Valentine Isave Hồ Thị Thú |
28-01-1898 |
08-12-1926 |
08-12-1932 |
Mất: 20-03-1983 |
2- Denise Anna Diệm |
13-02-1909 |
15-08-1934 |
|
Mất: 29-02-1840 |
3- Candide Maria Phạm Thị Thiên |
26-10-1909 |
15-08-1931 |
05-08-1937 |
Mất: 25-04-1981 |
4- Claudia Maria CTTN Thị Luyến |
12-09-1913 |
15-08-1934 |
05-08-1940 |
Mất: 16-08-1994 |
5- Uxula CT Tôn Nữ Thị Trước |
04-09-1914 |
08-12-1937 |
08-12-1943 |
Mất: 23-01-1999 |
6- M.Eugène Têrêxa Phạm Thị Chiểu |
04-08-1922 |
05-08-1943 |
05-08-1949 |
Mất: 02-12-2008 |
7- Toussaint CT Tôn Nữ Thị Diễn |
14-04-1920 |
1941 |
05-08-1947 |
Mất: 14-04-2015 |
8- Blandine Nguyễn Thị Miên |
06-04-1929 |
1950 |
05-08-1956 |
Mất: 11-08-2019 |
9- Nathanael Đoàn Thị Hậu |
1934 |
1955 |
1960 |
Hưu |
10- Agnès Nguyễn Thị Quư |
1936 |
1957 |
1962 |
Hưu-Nk: 8-2017 |
11- Vincent Phạm Thị Ngọc Hiệp |
1935 |
1957 |
1962 |
Hưu-Nk: 8-2017 |
12- Pazzi Trần Thị Thơ |
1937 |
1957 |
1962 |
Hưu-Nk: 8-2017 |
13- Anna Trần Thị Phú (Thanh tuyển) |
1943 |
|
|
Mất: 17-06-1958 |
14- Beatrice Trần Thị Hưởng |
1943 |
1963 |
1968 |
|
15- Maria Nguyễn Thị Hà |
1950 |
1973 |
1986 |
|
16- Anna Tống Thị Hường |
1954 |
1981 |
1990 |
|
17- Madalena Nguyễn Thị Xuân Hà |
1961 |
1987 |
1994 |
|
18- Matta Vơ Thị Hương |
1963 |
1990 |
1999 |
|
19- Matta Lê Thị Thuận |
1978 |
2004 |
2012 |
|
20- Lucia Phạm Thị Hoàng Yến |
1982 |
2008 |
2014 |
|
21- Têrêxa Nguyễn Thị Hoàng Oanh |
1982 |
2008 |
2014 |
|
* Ḍng Thánh Phaolô
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Khấn ḍng |
Qua đời |
Bị chú |
1. Amanda Phạm Thị Tùng |
12-03-1908 |
01-03-1939 |
23-11-1977 |
|
2. Paulina Đinh Thị Ba |
08-01-1909 |
01-03-1939 |
06-02-2002 |
|
3. Marie de Saint Paul Hóa |
1915 |
08-08-1947 |
05-07-1996 |
|
4. Joseph Anna Dương Thị Năm |
30-01-1917 |
08-09-1949 |
19-02-2007 |
|
5. Clément Agnès Nguyễn Thị Sen |
13-08-1918 |
08-09-1949 |
|
|
6. Gisette Anna Trần Thị Mai |
30-11-1919 |
08-08-1948 |
08-07-1998 |
|
7. Marie Modeste Lê Thị Vi |
26-02-1937 |
1967 |
|
|
8. Elisabeth Nguyễn Thị Xuân |
07-01-1950 |
07-12-1986 |
|
|
* Ḍng Kín Cát-Minh
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Khấn ḍng |
Qua đời |
Bị chú |
1. Jeanne Louis Trương Thị Sinh |
1911 |
1926 |
1930 |
|
2. Marie Aimée Nguyễn Hữu Thị Tài |
30-09-1907 |
15-08-1931 |
11-04-1995 |
|
3. Thérèse Nguyễn Thị Thu Hương |
1932 |
1954 |
|
|
4. Elisabeth Lê Thị Vui |
18-01-1940 |
17-12-1967 |
|
|
5. Marie Jacinta Nguyễn Thị Hường |
1948 |
1976 |
|
|
6. Marie Thérèse Ng. Thị Minh Tâm |
07-08-1961 |
02-02-2002 |
|
|
7. Marie Nguyễn Thị Diệu |
28-07-1963 |
28-05-2003 |
|
|
* Tu hội đời Thánh Tâm Chúa Giêsu
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Khấn ḍng |
Qua đời |
Bị chú |
1. Anna Đặng Thị Hiệp |
21-02-1957 |
08-11-1984 |
|
|
2. Clara Lê Ngọc La Bạch |
13-08-1958 |
02-07-1986 |
|
|
4- Tu sĩ nam
Tên thánh, họ và tên |
Năm sinh |
Khấn ḍng |
Qua đời |
Ḍng |
1. Phêrô Ngô Thế Phủ |
1916 |
1939 |
1939 |
Thánh Tâm |
2. G.B. Lê Văn Gioang |
1920 |
1938 |
2003 |
Thánh Tâm |
3. Tađêô Nguyễn Văn Quờn |
1920 |
1938 |
1999 |
Thánh Tâm |
4. Phaolô Nguyễn Hữu An Quỳnh |
1934 |
1954 |
24-06-2012 |
Thánh Tâm |
5. Phaolô Lê Văn Thậm |
13-12-1905 |
09-12-1930 |
04-04-1951 |
Chúa Cứu Thế |
6. Didace Nguyễn Văn Thay |
31-03-1918 |
1943 |
22-11-1993 |
Phanxicô |
7. Tađêô Phạm Văn Hiến |
11-03-1963 |
28-09-1977 |
|
Phanxicô |
5- Giáo dân:
– Năm 2010: 5.568 người
– Năm 2015: 5.652 người
– Năm 2020: 5.667 người
—————————————————————————
[1] Theo địa bạ cũ, Phủ Cam có tên là thôn Phước Quả thuộc làng
Dương Xuân Hạ. Dương Xuân gồm vùng đất từ lăng Tự Đức xuống tận chợ
An Cựu. “Vào thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn, “Phủ Cam” (府 柑)
vốn là một phủ, là chỗ ở của các hoàng tử”, dành để trồng cam và các
cây ăn trái. Sau đó, những người có đạo ở Thuận Hoá quy tụ về sinh
sống, lập ấp, khai sinh ra làng nón Phủ Cam ngày nay, và tên gọi Phủ
Cam cũng do đó mà có. (X. Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế, mục từ Phủ
Cam (phủ), NXB Thuận Hóa, 2000, tr 379).
[2] Khi sau tên các Giám mục có 3 niên đại, th́ số đầu chỉ năm
sinh, số giữa năm chịu chức Gm và số cuối năm qua đời. Sau tên các
chúa Nguyễn cũng vậy (số giữa chỉ năm lên ngôi).
[3] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine.
Documents historiques I: 1658-1728. Paris, Téqui, 1923, tr. 242.
[4] Adrien Launay, Sđd, tr. 241-243.341. Bệnh viện của cha chứa
được 300 bệnh nhân. (BAVH 1921, tr. 190)
[5] Do hoàn cảnh lịch sử phải lo chống nhau với các chúa Trịnh ở
miền Bắc nên việc binh chế vơ bị cũng được các chúa Nguyễn chăm chút.
Quân lính được chia làm 5 cơ: Trung, Tả, Hữu, Hậu và Tiền. Quân số
Đàng Trong vào khoảng 30.000 người theo khảo cứu của các sử gia Pháp.
[6]A. Launay, sđd T I, tr. 437.
[7] A. Launay, sđd, T I, tr. 629.
[8] A. Launay, sđd T I, tr. 436.
[9] A. Launay, sđd T I, tr. 448. Trong thư gởi một người bạn,
thừa sai Jean-Baptiste Ausiès cho biết một số lớn giáo dân đă tự
nguyện mang gông và xiềng sắt, sẵn sàng chết để bảo vệ đức tin.
Chính chúa Minh ngại không dám giết nhiều người như vậy, tuy vẫn
muốn tiêu diệt Công giáo. Các quan cố vấn khuyên chúa đừng dùng án
trảm (chém đầu) để buộc giáo dân bỏ đạo, v́ khổ h́nh này nhẹ nhàng.
Nên giam đói để đưa đến cái chết dần ṃn nếu họ không chịu đạp các
ảnh thánh (A. Launay, sđd T I, tr 480)
[10] A. Launay, sđd T I, tr. 449.
[11] Annales des Missions Étrangères(A.M.E), tập 728, tr. 234.
[12] Theo linh mục Phaolô Nguyễn Kim Bính, khế ước mua đất nhà
thờ năm 1805 cho biết đất phía đông gần vườn ông Cai Bạ Tín Trung
Hầu. Vậy phải chăng ông Cai Lư trên và ông Cai Bạ là một?
[13] x. A. Launay, sđd T I, tr. 571.576
[14] A.M.E. tập 724, tr. 291.
[15] A. Launay, sđd T 1, tr. 553-555.
[16] A. Launay, sđd T 1, tr. 557.
[17] A. Launay, sđd T I, tr. 638-641.
[18] Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, 1998. Tập I,
tr. 311
[19] Xin thêm một giải thích nhỏ ở đây: Nhà thờ Phủ Cam được các
cha hội Thừa sai Paris chăm sóc từ lâu. Lúc nầy cha de Flory, đang
coi sóc nhà thờ Phủ Cam, là người thuộc hội. Nhưng khi cha
Alessandris lên làm Giám mục phó th́ v́ là Thừa sai ḍng Barnabite,
ngài muốn các cha Thừa sai Paris nhường quyền chăm sóc nhà thờ Phủ
Cam cho ḿnh. Sự việc xem ra nhỏ, nhưng liên hệ đến hai “ḍng” khác
nhau là hội Thừa sai Paris và ḍng Bácnabit, nên vấn đề trở nên khó
giải quyết.
[20] Năm 1719, linh mục thừa sai Pierre de Sennemand trong
thời gian sống ở Thợ Đúc (1710-1719) đã lập một phước viện
Mến Thánh Giá. Đây là dòng nữ đầu tiên ở Giáo phận Huế.
Cha P.de Sennemand đã hướng dẫn phước viện suốt 11 năm. (trích
Lịch sử Hội dòng MTG Huế). Ḍng này vừa kỷ niệm 300 năm thành
lập.
[21] A. Launay, sđd, T. I, tr. 387.
[22] A. Launay, sđd, T. II, tr. 99-100
[23] A. Launay, sđd, T. II, tr. 403.
[24] A. Launay, sđd, T. III, tr. 111.
[25] A. Launay, sđd, T. III, tr. 107-108.
[26] St. Nguyễn Văn Ngọc và Giuse Nguyễn Văn Hội, Lịch sử Giáo
phận Huế qua các triều đại vua chúa. 1994, tr. 161.
[27] Trong lá thư đề ngày 14 tháng 5 năm 1805, Đức cha Jean
Labartette cho biết: …“C̣n về linh mục bản xứ, đó là cha Marinô nay
không c̣n nữa, cha Hiền, cha Nhơn, cha Tín, cha Tuân, cha Hiền cũng
vừa mới qua đời, cha An, cha Lũy, cha Yên, cha Phước và cha Kim vừa
mới thụ phong…” (A. Launay sđd T. III, trang 413-414). Cha Marinô là
Marinô Phiên, cha Nhơn là là GB Nhơn, cha An là Nguyễn Ḥa An và cha
Kim là Nguyễn Phước Kim. 4 vị đều từng ở PC.
[28]Lm Phaolô Nguyễn Kim Bính, Lịch sử Giáo xứ Phủ Cam. Xem L.-E.
Louvet, La Cochinchine Religieuse, Paris, Ernest Leroux, 1885. T.
II, tr 117.
[29] Trích dẫn theo Trấn Biên gia phả, tr. 40 và 41.
[30] Phong trào Đá Vách là tên gọi một loạt nổi dậy của
người dân tộc thiểu số ở Quảng Ngãi Việt Nam. Phong trào
kéo dài từ đầu triều Gia Long đến suốt hơn nửa thế kỷ.
[31] Trấn Biên gia phả, tr. 40-41
[32] Lm Hồng Phúc. Điển Ngữ Các Thánh. tr.34.
[33] Theo Lược sử Giáo xứ Lương Văn, trại giam Cồn Cát trước đây
hiện là sở đất các chị ḍng Con Đức Mẹ Đi Viếng tại giáo xứ nầy.
[34] Xem https://archives.mepasie.org/fr/annales/confesseurs-de-la-foi-de-1848-a-1862-2-suite
[35] St. Nguyễn Văn Ngọc và Giuse Nguyễn Văn Hội, sđd, tr.
264-269.
[36] Sau khi làm quản xứ Trường An, cha Tuyên đổi về An Truyền
rồi Dương Lộc (Quảng Trị). Ngài chết v́ đạo ngày 8-9-1885 tại Dương
Lộc do Văn Thân tấn công trong vụ tàn sát các làng Công giáo ở tỉnh
Quảng Trị. Xác ngài được mai táng ở Lăng tử đạo Dương Lộc với trên
2500 giáo dân trong vụ tàn sát đó. Thọ 56 tuổi, 21 năm linh mục.
[37] Linh mục Phaolô Nguyễn Kim Bính, Lịch sử giáo xứ Phủ Cam,
bản đánh máy chữ, 1982, tr. 49-50.
———————————————————————-
Mọi góp ư, bổ sung, điều chỉnh xin vui ḷng liên hệ với Linh mục
Phêrô Phan Văn Lợi theo địa chỉ email: witness2005@gmail.com Xin cám
ơn quư vị rất nhiều.
Nhóm Biên sử Tổng Giáo phận Huế.
Giáo xứ Phủ Cam qua ḍng
lịch sử
Lm. Stanislaô Nguyễn Đức Vệ
- Nguồn :
Trang Web Giáo
Phận Huế
|