|

Lược
sử Giáo xứ Tây Linh
Nguồn : Website TGP Huế
(24/2/2020)

I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ Tây Linh, giáo hạt Thành Phố Huế, nằm trên địa bàn phường
Thuận Lộc, Kinh thành Huế, phía tây bắc là cửa An Ḥa, phía đông là
đường Mang Cá và cống Cầu Kho, phía tây là cửa Chánh Tây, cách toà
Giám mục Huế khoảng 3,26 km về phía bắc tây bắc, theo đường chim
bay. Nhà thờ Tây Linh nằm ở số 139 đường Thái Phiên.

II. NGUỒN GỐC H̀NH THÀNH VÀ QUÁ TR̀NH
PHÁT TRIỂN
1. Từ cuộc truyền giáo của các cha Ḍng
Tên (1624):
Trong lịch sử Giáo phận Huế, họ đạo Cầu Kho[1] (tên cũ của giáo
xứ Tây Linh) có lẽ thuộc loại cộng đoàn tín hữu h́nh thành rất sớm.
Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, “năm Giáp Tư (1624) có
giáo sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú
Xuân và lập các giáo đường”[2]. Lập giáo đường (nhà thờ) th́ hẳn là
đă có tín hữu. Nhưng rồi, các chúa Nguyễn liền cấm đạo gay gắt như
chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) với sắc chỉ năm 1625, chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) với hai sắc chỉ năm 1639 và 1644,
chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) với hai sắc chỉ năm 1663 và
1665, chúa Ngăi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) với sắc chỉ năm 1691,
chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) với sắc chỉ năm 1700, nên các
cộng đoàn chẳng c̣n sinh hoạt nữa.
Đến đời chúa Vơ Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), việc cấm hành đạo
và bắt người theo đạo bớt nghiêm ngặt, một số giáo sĩ lại vào giảng
đạo ở Phú Xuân cho quan lại và dân chúng. Lúc nầy, theo lưu truyền,
ở đất Cầu Kho đă có một nhà nguyện bằng tranh.
Trải qua thời kỳ cấm đạo và bắt đạo khắc nghiệt kéo dài từ triều
Tây Sơn đến các vua triều Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,
ngôi nhà nguyện bằng tranh ấy đă không c̣n dấu vết. Trong thời này,
ông Micae Hồ Đ́nh Hy (1808-1857), quan thái bộc, hàm tam phẩm,
thuộc cộng đoàn Cầu Kho, đă đến Cung Quán gần đó, nơi Đức Cha
Dominique Lefèbvre (Giám mục Tây Đàng Trong) đang bị vua Thiệu Trị
giam giữ tháng 8 năm 1846, để giúp đỡ cho ngài. Nhà ông Micae cũng
từng nhiều lần đón Đức Cha François Pellerin (Giám mục Bắc Đàng
Trong) đến trú ngụ, suốt thời gian ngài kinh lược giáo phận (từ
tháng 3-1848 đến tháng 3-1849). Ông Micae về sau đă tuẫn đạo dưới
triều Tự Đức, được phong hiển thánh, và hài cốt hiện được tôn kính
tại nhà thờ Tây Linh.
Trong các cuộc bách hại của Văn Thân năm 1885-1886, một số giáo
dân đă chạy vào Nội thành t́m chỗ trú an toàn gần nhượng địa của
Pháp mới được thành lập (khu vực đông bắc của Thành nội, thường gọi
là Mang Cá lớn và Mang Cá nhỏ, tức Trấn B́nh đài). Rồi một số gia
đ́nh thuộc họ đạo Trài (Cự Lại) từ Thuận An lên đây sinh sống, buôn
bán, bồi bếp. Họ làm gia tăng số tín hữu ở Cầu Kho.
Đến thời vua Thành Thái (1889-1907), với sự giúp đỡ nhiệt t́nh
của Lễ bộ Thượng thư Ngô Đ́nh Khả (vị đại thần về sau đă can đảm
phản đối quyết liệt việc thực dân Pháp phế và đày vua yêu nước Thành
Thái), ngôi nhà nguyện bằng tranh (v́ không có phép xây gạch lợp
ngói) lại xuất hiện ở Cầu Kho, tại địa điểm nhà thờ Tây Linh hiện
thời, để số giáo dân ở Nội thành sớm hôm đọc kinh cầu nguyện. Tiếc
thay, nhà nguyện này lại bị các quan trong triều phản đối, nên vua
đă cho triệt hạ.
2- Giáo họ trực thuộc Tiên Nộn
Vào năm 1909, cộng đoàn Cầu Kho bắt đầu được sự chăm sóc của một
mục tử, trở thành giáo họ trực thuộc giáo xứ Tiên Nộn. Đó là thời
cha Pierre Godet (cố Thiện, 1866-1898-1926) làm cha sở Tiên Nộn
(1909-1926) kiêm nhiệm Cầu Kho. Giáo dân Cầu Kho khi ấy rất nghèo,
nên ngài đă chỉ dạy cho họ trồng rau cao cấp bán cho triều đ́nh Việt
và quân đội Pháp: su bắp, su trái, tỏi tây… đồng thời ngài cũng vận
động giáo dân xây nhà nguyện.
Lúc bấy giờ giáo họ Cầu Kho có hai gia đ́nh có con làm linh mục
là cha Phaolô Văn Đình Vĩnh (1891-1920-1968) và cha Gioakim Vơ
Quang (1904-1936-1991, thân sinh từ Cự Lại lên). Họ ở hai lô đất lớn
bên cạnh nhau trước con sông đào (Ngự Hà). Cả hai đồng thuận mỗi
gia đ́nh nhường nửa lô đất để xây dựng nhà nguyện Cầu Kho.
Ngôi nhà nguyện này nằm trên khu đất hiện là trường trung học cơ
sở Tố Hữu (xem bản đồ). Năm 1946, cha Anrê Nguyễn Văn Cần (gốc
Trường An), chánh xứ Gia Hội kiêm giáo họ Cầu Kho, sửa nhà nguyện
thành nhà thờ lợp ngói khá khang trang. Lúc này giáo họ có khoảng
150 người.
3- Thành giáo xứ, có cha quản xứ riêng.
Năm 1950, cha Phaolô Trần Bá Hạnh (gốc Sơn Công, 1897-1926-1984)
được vị Giám mục Đại diện Tông toà Huế là Đức Cha J.B. Urrutia (Thi)
bổ nhiệm làm quản xứ Cầu Kho. Giáo dân lúc này được khoảng 500 người.
Làm cha sở tiên khởi, công việc đầu tiên của ngài là cơi nới
ngôi nhà thờ cũ cho rộng răi, thông thoáng. Các quan chức địa phương
hủ lậu và kỳ thị bèn ra lệnh cho cha Hạnh phải triệt hạ thánh đường
vừa mới tu sửa. Cha Hạnh đă nhờ ṭa Giám mục xin Thủ hiến Trung Việt
can thiệp. Bấy giờ (thời Quốc trưởng Bảo Đại), ông Thủ hiến là dược
sĩ Phan Văn Giáo đă xin với chính quyền trung ương cho ngôi thánh
đường Cầu Kho tồn tại và đă được chấp nhận.
Kể từ khi chính thức được thành lập giáo xứ, cha sở tiên khởi
cùng cộng đoàn đă chọn ngày 15 tháng 8 hằng năm, lễ Đức Mẹ Hồn Xác
Lên Trời làm bổn mạng cho giáo xứ.
Đến năm 1962, cha Giuse Trần Thắng Trung (gốc Kẻ Văn,
1917-1948-2002) về thay thế. Giáo xứ từ đây đổi tên thành Tây Linh.
Thời điểm này, giáo dân vào khoảng 2000 người. Đa số từ các tỉnh
Quảng B́nh, Quảng Trị, đến sau năm 1954, và một số từ các vùng bị
giải tỏa thời ấy. Ngôi nhà thờ lúc đó quá chật hẹp không đáp ứng
được điều kiện mục vụ.
Một buổi sáng mùa hè 1962, Đức cha Phêrô Ngô Đ́nh Thục đến thăm
cha sở Giuse, thấy nhà thờ Cầu Kho phía trong là phần cũ mái ngói
vách gạch trên nền rất cao v́ hay lụt lội, phía ngoài có cái rạp lớn
lợp tôn, nền xi-măng rất thấp, chung quanh trống trơn. Chúa nhật cha
quản xứ làm lễ nơi bàn thờ tạm đặt ở cửa chính nhà thờ, giáo dân
trong nhà thờ quay mặt ra, ngoài rạp quay mặt vô, mặc dầu vậy cũng
không đủ chỗ. Câu họ Phan Văn T́m (Cửu T́m, ông ngoại cha Phêrô
Trần Văn Quí) mới xin Đức cha t́m cách phục hồi ngôi nhà thờ cũ do
cụ cố Ngô Đ́nh Khả xây cất mà đă bị triệt hạ.
Nhờ sự giúp đỡ của Đức cha Thục, cha Trung đă xây ngôi nhà thờ
mới lớn hơn (trên nền nhà nguyện bằng tranh tre thời cụ Thượng thư,
tức địa điểm hiện thời), cách nhà thờ cũ gần 200m về phía tây; c̣n
khu đất cũ th́ nhường lại cho các cha ḍng Tên xây trường trung học
Tín Đức mà sau năm 1975, Nhà nước đă quản lư và đổi thành Trung học
cơ sở Tố Hữu.

Bên trong nhà thờ Tây Linh
Ngôi thánh đường mới này dài 43m, rộng 16m, vách kiên cố, mái lợp
ngói, tháp cao 30m[3], nằm trên lô đất rộng 10.240m2, khởi công từ
năm 1962 đến năm 1964 th́ hoàn thành, lấy tên chính thức là nhà thờ
Tây Linh.
Cha Giuse Trần Thắng Trung cũng xây một trường tiểu học nằm ở sân
nhà thờ, phía trái nh́n từ ngoài cổng. Ngôi trường mang tên người
con ưu tú của giáo xứ, thánh tử đạo Micae Hồ Đ́nh Hy. Trường được
giao cho các nữ tu Mến Thánh Giá phụ trách.
– Từ 1967-1968: cha Phaolô Nguyễn Kim Bính (gốc Đại Lộc,
1922-1951,1996), kiêm giám đốc Công giáo Tiến hành Giáo phận lần 2.
Có cha Antôn Nguyễn Văn Huề ở phó.
Cha Phaolô cai quản giáo xứ đúng vào năm có biến cố Mậu Thân.
Phần lớn Thành nội lúc ấy bị Bắc quân xâm chiếm (ngoại trừ đồn Mang
Cá ở góc đông bắc vốn bị tấn công quyết liệt). Người dân lúc ấy dĩ
nhiên t́m cách chạy thoát ra bên ngoài thành. Người ta c̣n truyền
tụng câu chuyện có một ông già râu tóc bạc phơ đứng trước nhà thờ
Tây Linh, trên đường Thái Phiên, nhắc cho đồng bào đừng chạy lên
phía Cầu Kho, nơi đang có giao tranh dữ dội, mà hăy chạy về hướng
ngược lại. Phải chăng đó là thánh Giuse như nhiều tín hữu đă cảm
nghĩ?
– Từ 1968-1970: cha Giacôbê Trần Văn Thời. (gốc Hương Lâm,
1923-1950-1994). Khi xảy ra biến cố Mậu Thân, cha Giacôbê đang là
quản xứ Nước Ngọt (từ 1963). Ngài bị bắt lên núi 2 tháng 5 ngày rồi
được phóng thích về Huế, lănh bài sai đi coi xứ Tây Linh từ
14-07-1968.
– Từ 1970-1975: cha Giuse Nguyễn Văn Giáo (gốc Ḥa Ninh,
1927-1957-?). Ngài đóng trần nhà thờ, sửa cung thánh và nhà tạm, xây
đài Đức Mẹ trước nhà thờ. 1970 là cao điểm của giáo xứ với 4.200
giáo dân. Sau 1975, ngài vào Cam Ranh ở.
– Tháng 5-1975 đến 10-1975: cha Tanítlaô Nguyễn Đức Vệ (gốc Mỹ
Đức, Quảng B́nh, 1944-1971-nghỉ hưu) coi Tây Linh trong ṿng 1 tháng,
sau đó đổi qua Gia Hội nhưng kiêm nhiệm xứ cũ cho đến th. 10. Ngôi
trường tiểu học Hồ Đ́nh Hy của giáo xứ bị nhà nước quản lư, xây
tường, rào thép B40, đổi tên thành Tiểu học số 1 Thuận Lộc, đến nay
vẫn chưa trả lại dù giáo xứ yêu cầu. Ngôi trường trung học Tín Đức
của ḍng Tên ở phía đông nhà thờ, nh́n ra Ngự Hà, cũng bị quốc hữu
hóa, biến thành trung học cơ sở Tố Hữu.
Thời gian 1975-2000 là giai đoạn khó khăn nhất của cộng đoàn giáo
xứ Tây Linh. Số giáo dân ngày càng sút giảm v́ phải đi phương xa cầu
thực, sinh hoạt các đoàn thể gặp ngăn trở, cơ sở vật chất của giáo
xứ không được bảo dưỡng, trùng tu nên ngày càng xuống cấp.
– Từ 10-1975 đến 01-1977: cha Phaolô Tống Văn Đơn (gốc Nhất Đông
1918-1951-1988). Cuối tháng giêng năm 1977, ngài đi mobilette về ṭa
Giám mục b́nh yên vô sự. Nhưng một vài giờ sau bị huyết áp cao, đứt
mạch máu, lâm cơn bất tỉnh, phải đưa vào Bệnh viện Trung ương Huế,
và từ đó bán thân bất toại, về Nhà chung dưỡng bệnh.
– Từ 1977-1980: Tây Linh được cha Gioakim Lê Thanh Hoàng (gốc Trí
Bưu, 1934-1968-nghỉ hưu) quản xứ Tây Lộc, kiêm nhiệm cho đến khi có
quản xứ mới.
– Từ 1980-1999: cha Batôlômêô Nguyễn Quang Anh (gốc Lê Xá,
1938-1964-nghỉ hưu). Kiêm Tây Lộc từ 1983 (khi cha Lê Thanh Hoàng
vắng mặt), ngài đă trùng tu nhà thờ Tây Lộc lẫn Tây Linh. Ngài cũng
xây tường thành bao quanh nhà thờ và nhà xứ Tây Lộc; nhờ vậy khuôn
viên thánh đường mới không bị lấn chiếm và giữ được cho đến hôm nay.
Ngài cũng xây nhà xứ hiện tồn ở Tây Lộc.
– Từ 1999-2010: cha Phaolô Nguyễn Văn Hiển (gốc Hà Thanh,
1933-1964-2017). Ngài xây lại các cửa ra vào xung quanh nhà thờ, sơn
tường, đóng trần, thay ngói mới nhà thờ và nhà xứ, trùng tu và nâng
cấp sở các chị, đúc bê-tông sân nhà thờ rất khang trang, xây 5 pḥng
học giáo lư trong khuôn viên nhà thờ.
– Từ 2010 đến nay: cha Đôminicô Phan Phước (gốc Mỹ Phước, Quảng
B́nh 1947-1975-).
Năm 2012, ngài tiếp tục xây tường thành khuôn viên, kho đựng vật
dụng của nhà thờ, nhà vệ sinh cộng đồng, sửa lại pḥng hội của giáo
xứ, đổ bêtông sân nhà xứ.
Ngày 18-6-2014, cha tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm xây nhà thờ giáo xứ.
Chủ sự thánh lễ là Đức Tổng Giám mục P.X. Lê Văn Hồng, với sự tham
dự của hơn 30 linh mục trong giáo phận, các bề trên hội ḍng, các tu
sĩ nam nữ, các đại diện giáo xứ: Phủ Cam, Phanxicô, Phường Đúc, Gia
Hội, Ngọc Hồ, Tây Lộc, các thành viên hội Đồng hương Tây Linh từ xa
về và giáo dân Tây Linh tại chỗ.
Là một linh mục hăng say sinh hoạt hội đoàn, cha Đôminicô hiện là
Tổng Tuyên úy của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam, đồng thời
là chủ tịch ủy ban Mục vụ Thiếu nhi của Giáo phận.
Tại Tây Linh hiện nay, trong khuôn viên nhà thờ, có quán cơm xă
hội, bán cơm giá rẻ cho người nghèo trong khu vực và cung cấp cơm
miễn phí cho bệnh nhân tại Bệnh viện Trung ương Huế. Công tŕnh này
do linh mục G.B. Lê Văn Nghiêm (nay đă về hưu) khởi xướng và điều
hành từ nhiều năm qua, với sự cộng tác của một số giáo dân thiện
nguyện.
III. HOA TRÁI ĐỨC TIN
1- Linh mục
– Cha Phaolô Văn Đ́nh Vĩnh (1891-1920-1968).
– Cha Gioakim Vơ Quang (1904-1936-1991).
– Cha Phêrô Trần Văn Quí (1944-1973-nghỉ hưu)
– Cha Batôlômêô Phan Trần Thái, Ḍng Don Bosco
– Cha Phêrô Nguyễn Quang Long (1984-2019-)
2- Tu sĩ
– Anna Vơ Thị Quyền, sn 1906, vk 1945, qđ 1979, Ḍng Con Đức Mẹ
Đi Viếng.
– Anna Lê Thị Liễu, sn 1917, vk 1946, qđ 2006, Ḍng Con Đức Mẹ Đi
Viếng.
– Gertrude Văn Thị Vân, sn 1905, vk 1936, qđ 1996, Ḍng Con Đức Mẹ
Vô Nhiễm.
– Luxia Đặng Thị Hoàng, sn 1915, vk 1942, qđ 1982, Ḍng Con Đức Mẹ
Vô Nhiễm.
3- Giáo dân
– Năm 2010: 1130 người
– Năm 2015: 1174 người
– Năm 2020: 871 người.
Giáo xứ chia thành 4 khu vực: Đức Bà, Thánh Giuse, Thánh Tâm, Các
Thánh Tử Đạo. Giáo dân đa số nghèo, sinh sống bằng nghề đạp xích lô,
xe thồ, trồng rau xanh, buôn bán nhỏ, chằm nón … và một số rất ít là
công nhân viên chức nhà nước.
Hội đồng Giáo xứ cũng đă đóng một vai tṛ quan trọng, cộng tác
với cha xứ trong công việc mục vụ, nhất là từ sau Công đồng Vatican
II. Lược sử giáo xứ Tây Linh c̣n ghi lại một vài tên tuổi:
Vị chủ tịch Hội đồng Giáo xứ tiên khởi là ông Nguyễn Văn Đàng,
nhiệm kỳ 1966-1969. Đây là nhiệm kỳ thử nghiệm dự thảo qui chế HĐGX.
Ông Đàng đă đảm nhiệm chức vụ này rất tận tụy. Là người tu xuất,
có kiến thức, có óc tổ chức và nhiều sáng kiến, ông đă cùng với HĐGX
giúp cha quản xứ đưa giáo xứ tiến bộ về mọi mặt: đạo, đời, sinh hoạt
hội đoàn, sinh hoạt xă hội
Kế tiếp là các vị sau:
– Nhiệm kỳ 1969-1973: Ông Đỗ Văn Náo
– Nhiệm kỳ 1973-1975: Ông Trần Công Toản
– Nhiệm kỳ 1975-2005: Ông Nguyễn Văn Cữu
Ông Nguyễn Văn Cữu giữ chức chủ tịch HĐGX lâu năm nhất từ trước
tới nay, và trong giai đoạn khó khăn về mọi mặt. Ông là người can
đảm và nhiệt thành với nhà Chúa, khó có ai sánh kịp. Nhờ sự quả cảm
và kiên tŕ của ông mà nhà thờ Tây Linh, nhà các nữ tu, nhà xứ và
bất động sản của giáo xứ tồn tại đến ngày nay (ngoại trừ ngôi trường
trong khu vực nhà thờ). Ông mất năm 2010 thọ 98 tuổi.
——————————————————————————-
[1] Họ đạo nằm gần Cầu Kho là một trong năm cầu cổ bắc qua Ngự Hà
(ḍng sông dành cho vua dạo chơi và để vận chuyển vật liệu trong Nội
thành) gồm cầu Vĩnh Lợi, cầu Kho, cầu Khánh Ninh (cống Hắc Báo), cầu
Tây Thành Thủy Quan, cầu Đông Thành Thủy Quan (cầu Lương Y). Những
cây cầu này có tuổi đời trên 200 năm.
[2] Jean Rhodes là linh mục Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ),
Ḍng Tên, sinh ở Avignon, lănh thổ Ṭa thánh trên đất Pháp. Phú Xuân
là tên cũ của Kinh đô Huế. Xem Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược,
quyển II. Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu, 1971, trang 99.
[3] Lẽ ra tháp phải cao hơn nữa mới cân xứng, nhưng v́ gần đó có
sân bay quân sự Tây Lộc nên nhà nước không cho.
———————————————————————–
Mọi góp ư, bổ sung, điều chỉnh xin vui ḷng liên hệ với Linh mục
Phêrô Phan Văn Lợi theo địa chỉ email: witness2005@gmail.com Xin cám
ơn quư vị rất nhiều. Nhóm Biên sử Tổng Giáo phận Huế.
Nguồn : Website TGP Huế
|
|