Lược
sử Giáo xứ Ngọc Hồ
Linh mục Gio-gi-ô Nguyễn
Thành Phương (9/92011)
I. Vị trí địa lư:
Thôn Ngọc Hồ, hiện nay thuộc xă Hương Hồ, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Giáo xứ Ngọc Hồ, thuộc Giáo Hạt Thành Phố Huế,
cách trung tâm thành phố 12 km dọc theo bờ tả ngạn sông Hương, và
cách Toà Giám mục Huế khoảng 4 km theo đường chim bay. Du lịch bằng
thuyền rồng, đi theo đường thủy trên Sông Hương, từ cầu Phú Xuân lên
đến nhà thờ Ngọc Hồ khoảng chừng hơn một giờ. Đối diện nhà thờ bờ
bên kia sông là bến đất, du khách có thể đi bộ thăm Lăng Vua Tự Đức.
Từ Nhà thờ Ngọc Hồ đi lên phía thượng nguồn khoảng
1,5 km, có một danh lam thắng cảnh khác nổi tiếng là Điện Ḥn Chén.
II. Nhà thờ Ngọc Hồ
Nhà thờ hiện tại được xây dựng dưới thờ cha Micae
Nguyễn Văn Cẩm, người Tân Mỹ : từ 1917 đến 1921. Đây là một trong ba
ngôi nhà thờ công giáo kiểu nhà rường Huế, vẫn c̣n tồn tại ở Huế với
nhà thờ An Vân và
nhà thờ Đốc Sơ, dù trải qua
năm tháng chiến tranh, bom đạn trước đây. Bên trong ngôi nhà thờ là
bộ giường tṛ bằng gỗ lim, với các cột lớn có đường kính gần 30 cm.

Năm 1989 Cha Giuse Nguyễn Văn Chánh (Quản xứ từ
1980 - 1999) đă cho sửa chửa những chổ hư hại và xóc lại mái ngói đă
bị xuống cấp.
Tháng 10/ 2009 khi thấy nóc mái nhà thờ bị dột
nặng, do mái ngói nhà thờ bị dột đă nhiều năm, một số đ̣n tay đôn đă
mục, nếu t́nh trạng kéo dài, mái ngói có thể sập đổ, đ̣n tay chính
trên cung thánh đă mục hơn một nữa! Và mỗi lần mưa là cả nhà thờ
nước lênh láng, các bàn quỳ ướt sủng. Cha Tân Quản xứ vận động bà
con đồng hương và ân nhân xin lợp lại mái ngói mới. Ngày 2. 11. 2009
khởi đầu công việc tu sữa nhà thờ, 8.12 lợp lại mái ngói mới; bên
ngoài là ngói Hạ Long, và phía bên trong vẫn giữ lại mái ngói liệt,
và mở rộng cung thánh, bằng cách sử sụng không gian cung thánh cũ và
pḥng áo cũ để làm cung thánh mới rộng răi hơn, cộng thêm việc mở
rộng 2 cánh bên. nới rộng thêm hai cách hai bên mỗi cánh 4,5 m X 6
m, tổng diện tích hai cánh là 54 m2. Mở rộng gian cung thánh. Xây
thêm một pḥng thánh với diện tích là 12m X 2,5m = 30 m2.

Để phù hợp với những cột nhà rường, Cung Thánh
được trang trí theo văn hóa Á Đông, các hoa văn chạm lọng, và các
bức gỗ chạm nổi ( tứ thời: mai -lan -cúc -trúc), Bàn thờ và Nhà Tạm
cũng được chạm trổ cho phù hợp với nhà rường. đặt mới các tượng:
Chuộc tội, Đức Mẹ và Thánh Giuse mới cho phù hợp với không gian cung
thánh mới, lót gạch men nhà thờ.

III. Bến Nhà Thờ - Núi Đức
Mẹ

Trước mặt Nhà Thờ Ngọc Hồ là sông Hương có Bến
Nước xây dựng 2008, đối diện hướng Đông Bắc, là dăy núi khá cao như
b́nh phong làm tiền án cho nhà thờ, và ḍng sông Hương tựa như minh
đường của nhà thờ, chêch chếch về hướng Đông với các khu di tích
lịch sử thành phố Huế như nhà máy nước Vạn Niên, đồi Vọng cảnh, nằm
ở phía hữu ngạn sông Hương. Phía sau nhà thờ là núi cao gọi là Ngọc
Sơn làm hậu chẫm ( cách nói theo thuật phong thuỷ), có đặt tượng Đức
Mẹ từ thời Đức Cha Martinô Ngô Đ́nh Thục 19. 6. 1963, giáo dân quen
gọi là Núi Đức Mẹ. Tháng 5. 2011 đài Mẹ đă được sửa chữa và tôn tạo
lại cho phù hợp. Hằng năm vào các dịp 3 Tết, hay Lễ Mẹ Hồn Xác lên
trời, những giáo dân không thể đi hành hương La Vang, đi lên đài Mẹ
trên núi này để cùng nhau lần chuổi mân côi.

IV. NGHĨA TRANG CÁC ANH HÀI

Từ năm 1992, một khoảng của Đất Thánh được dành
riêng để an táng các thai nhi bị phá bỏ tại Bệnh viện Trung Ương Huế,
nhóm “ PH̉ SỰ SỐNG ” của các linh mục và giáo dân Giáo Phận Huế, đưa
các thai nhi bị giết bỏ này lên an táng tại đây, và với sự giúp đỡ
của nhiều ân nhân, và cách riêng bà bác sĩ Nguyễn Quư Thể, hiện nay
( 2009) nghĩa địa này được xây dựng và chăm sóc tử tế, có thể gọi là
NGHĨA TRANG CÁC THIÊN THẦN. Nhóm “ PH̉ SỰ SỐNG” của Giáo phận Huế đi
tiên phong tại Việt Nam trong việc chôn cất các thai nhi này, tính
đến nay ( 5/2011 ) có khoảng 40.000, có ghi nhật kư công việc từ
những ngày đầu đến nay. (xem thêm : "Ở
đây có một nghĩa trang"
IV. NHỮNG ƠN GỌI LINH MỤC và
TU SĨ
Một số gia đ́nh công giáo Ngọc Hồ có gốc gác từ
Thanh Hóa di cư vào lập cư ở đây.
Theo lời kể của cụ Phan Văn Kiêm , 84 tuổi, kể: “
Chú ruột của cụ nói rằng: thời Văn Thân ( 1885) bắt đạo, một số tín
hữu Dương Sơn đă bỏ trốn đến thôn Hương Hồ, sinh sống làm thuê, rửa
chén bát, nhưng bị người ta chèn ép nhiều điều nên đă t́m đến Ngọc
Hồ định cư, làm ăn sinh sống.
Vào khoảng đầu thế kỷ 19, một gia đ́nh Công Giáo ở
Ngọc Hồ sinh được một người con trai. Người nầy sau trở thành Linh
Mục đầu tiên của giáo xứ Ngọc Hồ. Đó là cha Phanxicô Xavie Trương
Văn Thường, cũng có tên khác là “Cậu Thán”. Cha Thường sinh khoảng
năm 1806. Như vậy, chắc chắn vùng nầy đă có người Công Giáo ít ra
vào thế kỷ trước ( thế kỷ 18 ).
Cuối năm 1830, Thánh Phanxicô Jaccard (Phan) làm
cha sở họ Dương Sơn, th́ Ngài tức Cha Thường sau nầy, sống tại đó
với Thầy Trung. Thầy Trung c̣n gọi là Thánh Gioan Đoạn Trinh Hoan.
Ngoài ra c̣n có thêm Thầy Thận, tức cha Tađêô Phan Văn Thận sau nầy.
Mấy anh em làm việc với cha Jaccard, học hành để chuẩn bị lên chức
linh mục. Cách 2 năm sau, Thánh Jaccard gởi Ngài ra giúp cha
Delamotte (Cố Y) tại họ Nhu Lư, Quảng Trị.
Đến năm 1835, Ngài nhập học chủng viện Cái Nhum (Vĩnh
Long) và thụ phong linh mục năm 1849 tại chủng viện Lái Thiêu (Sàig̣n)
do Đức Cha Đôminicô Lefèbvre (Đức Cha Ngăi). Thụ phong xong, cha
Thường vào phục vụ tại Đồng Nai. Nhưng tại đây, Ngài đă bị nhà chức
trách Việt Nam bắt giam và đày ra đảo Côn Lôn v́ tội Công Giáo. Theo
như Ngài kể lại: h́nh khổ cay nghiệt nhất là nạn muỗi đốt. Ở Côn Lôn
2 năm, Ngài lại bị đày ra Quảng Ngăi. Hết thời hạn bị lưu đày, Ngài
trở về làm việc Tông Đồ mục vụ rất đắc lực, khiến các Đấng Bề Trên
tin tưởng. Đức Cha Stêphanô Cuénot (Thể), Thánh Tử Đạo, giao cho
ngài một chức vụ rất lớn, là cai quản cả vùng Bắc địa phận Qui Nhơn,
gồm Quảng Ngăi và Quảng Nam, y như một vị Đại diện (Provicarius).
Trong khi đó Cha Herrengt chính thức là Đại diện mà chỉ trông coi
một vùng B́nh Định mà thôi.
Vừa khi Ḥa Ước Bonard (Ḥa ước Nhâm Tuất) kư xong
ngày 5-6-1862, th́ Đức Cha Sohier (B́nh), giám mục Tông Ṭa Giáo
Phận Bắc Đàng Trong, vừa mới thiết lập, đă cho người mang thư vào
xin Cha Thường ra Huế. Bởi v́ Đức cha thấy ngài làm việc được, lại
là người gốc Huế. Cha Thường được trở về quê quán giáo phận ngày
18-10-1862.
Năm 1864, cha Thường đang làm cha sở họ Dương Sơn,
Đức cha Sohier có tổ chức công khai mấy ngày cấm pḥng năm cho các
linh mục trong địa phận, tại ṭa giám mục ở Kim Long. Cuộc cấm pḥng
này rất quan trọng, mang tính lịch sử v́ trước đó người Công giáo đă
bị bách hại, nhất là vụ Phân Sáp.
Đức cha Sohier phải đi lánh nạn ở vùng núi Sen
Bàng tại Quảng B́nh. Nay vua Tự Đức chính thức tha đạo, sau hiệp ước
Bonard, Đức cha mới công khai dám mở ra cuộc cấm pḥng đó, tại gần
Kinh đô và Triều đ́nh nữa. Nhiều linh mục đă đi dự, trong đó có cha
Thường.
Ngày 10-11-1883, cha Thường được lệnh đổi qua Thợ
Đúc là giáo xứ cuối cùng trong đời ngài và ngài đă qua đời tại đây
ngày 20-7-1892, hưởng thọ 86 tuổi, làm linh mục được 43 năm. Chính
ngài đă bảo trợ cho cha Hồ Ngọc Cẩn, sau trở thành giám mục từ khi ở
chủng viện lên tới chức linh mục. Về sau, ngài trối lại cho cha
Allys (Lư).
Chúng ta thấy trên đây vài nét sơ lược của một vị
linh mục, người xứ Ngọc Hồ. Nhưng chưa hết, sau nầy có nhiều gia
đ́nh cho con đi tu, lên đến chức linh mục.
Đặc biệt gia đ́nh hai ông bà Nguyễn Văn Cẩn lại có
ba người con làm linh mục là cha Nguyễn Văn Chính, cha Nguyễn Văn
Chuyên và cha Nguyễn Văn Mầu. Ḍng họ ba cha cũng có người làm linh
mục và chịu tử đạo là cha Inhaxiô Trần Ngọc Vịnh.
Xin nói về trường hợp của Cha Vịnh mà ba cha gọi
bằng cậu ruột. Cha Gioan B. Nguyễn Văn Huệ kêu là ông cậu. Cha Vịnh
người gốc Mậu Tài, xă Phú Mậu, huyện Phú Vang.
Cha ngài là ông Tham Tri Trần Giao, kết bạn với
một bà Công giáo, người làng Nhứt Đông (Thanh Hương), sinh hạ 3
người con : Trần Ngọc Vịnh, Trần Thị Uyển và Trần Thị Phước.
Nhà cụ Giao rất sùng Phật, cho nên ban đầu mẹ cha
Vịnh phải theo chồng, lơ đạo. Hai ông bà trú tại một căn nhà ở Gia
Hội. Ông Tham Tri sau đó qua đời. Nhưng bà Tham cho cô Phước và cậu
Vịnh vô tu chùa Quốc Ấn.
Thời gian sau bà không cho con tu chùa nữa, đưa
con về lại Gia Hội. Đứa con gái bà Trần Thị Uyển kết bạn với Đức Ông
Kiến Thoại, tức Thoại Thái Vương Hường Y. Đức Ông là con thứ tư của
vua Thiệu Trị.
Lúc ấy cha Giuse Nguyễn Văn Mỹ, người Da Môn đang
làm cha sở Dương Sơn, đồng thời coi các người Công Giáo ở Kinh đô
Huế. Nhờ những cuộc tiếp xúc, cha đă giúp mẹ của cha Vịnh trở lại.
Thế là sau đó, bà gởi hai con : cha Vịnh và cô Phước ra Dương Sơn,
nhờ cha Mỹ dạy dổ và cả hai được rửa tội do cha nầy.
Cậu Vịnh được 18 tuổi, c̣n cô Phước 10 tuổi. Được
tin, ông Kiến Thoại hết sức ngăn trở. Ông truyền cho quan Phủ Doản
t́m bắt các mẹ con. Nhưng gia đ́nh cho đi trốn, theo làm học tṛ Đức
cha Sohier, đó là cậu Vịnh. Đức cha thấy khả năng và tư cách cho cậu
nhập chủng viện.
Gặp biến cố Phân Sáp, vua Tự Đức ban hành ngày
22-8-1861, hai mẹ con bà Tham (bà với cô Phước) đă bị bắt, nhưng nhờ
sự can thiệp của Đức Ông Kiến Thoại, hai mẹ con khỏi bị chia ĺa,
rồi được thả ra liền. Lợi dụng cơ hội, bà đă gíup đỡ nhiều linh mục
và tu sĩ, như trường hợp cha Nguyễn Văn Thanh, người gánh nước thuê
tại chợ Đông Ba...
Sau đó đến ḥa ước Nhâm Tuất và Tự Đức tha đạo.
Gia d́nh bà trở về chỗ cư ngụ cũ ở Gia Hội. Nhưng thấy nơi nầy khó
giữ đạo, cậu Vịnh mới đưa mẹ về Dương Sơn.
Nhưng đầu tháng 9-1885, quân Văn Thân tấn công
nhiều làng mạc công giáo ở tỉnh Quảng Trị, Cha Vịnh đă bị Văn Thân
giết cùng với một số linh mục khác và giáo dân, tu sĩ tại họ Dương
Lộc ngày 8-9-1885.
Họ Ngọc Hồ hiện nay c̣n thêm những linh mục như :
cha Trương Văn Vệ, cha M. Trần Văn Hiêu, cha Trương Công Giáo, cha
Tống Thanh Trọng ( lm 1975) và cha Trương Văn Thường chịu chức ở Hoa
Kỳ 2000. Cha Đôminicô Trương Văn Quy, em ruột cha Thường, chịu chức
linh mục 4/ 11/ 2004) , cha Phêrô Hoàng Văn Trợ chịu chức tại Hoa Kỳ
( 5/ 2011)
Ơn gọi tu sĩ nam nữ hiện diện trong các ḍng: Ḍng
Thiên An, Ḍng Mến Thánh Giá, Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Ḍng Con Đức
Mẹ Đi Viếng, và khá nhiều mần non ơn gọi đang được hướng dẫn.
V. SINH HOẠT GIÁO XỨ
Bên tả ngạn của ḍng Hương giang, thuộc xă Hương
Hồ, huyện Hương Trà, là một vùng đất là người công giáo ( 455 tín
hữu theo báo cáo tháng 4 năm 2009) , có đức tin lâu đời trên 200 năm.
Giáo dân Ngọc Hồ làm nông nghiệp, chủ yếu họ canh tác trồng trọt hoa
màu, làm vườn trồng thanh trà bưởi, làm rẩy, đi rừng đốt củi làm
than. Một số đi vào miền Nam làm ăn đến dịp Tết mới về. C̣n buôn bán
th́ lẻ tẻ cũng hoa màu, trái trăn, hoa quả địa phương, đem từ đây về
Huế, bán lại cho dân. Đổi lại họ mua các món hàng khác mà địa phương
không có. Dân chúng có vẻ bận rộn từ mai tới tối, bằng các nghề trên.
Họ chỉ có một con đường làng duy nhất, được bêtông hoá, chạy dọc
theo bờ sông, đủ cho một chiếc xe gắn máy chạy thong thả. Hy vọng
rồi đây con đường này sẽ được mở rộng thêm để giao thông được thuận
lợi hơn. Ở đây chưa có chợ, cách nhà thờ 3 km có chợ xép hương hồ
trên đường dọc theo bờ Tả Ngạn Sông Hương đi về Huế, họp chợ buổi
sáng.

Sinh hoạt tôn giáo:
Ngày Chúa nhật có hai thánh lễ, thánh lễ lúc 5giờ
00 dành cho người lớn, học 5 phút giáo lư trước thánh lễ. Thánh lễ
thứ hai vào lúc 8 giờ 00 dành cho các em thiếu nhi và thiếu niên học
giáo lư. Ban chiều sinh hoạt các hội đoàn: Thiếu nhi Thánh Thể,
Legio... Ban tối, 6 giờ 30 Lần hạt - Chầu Phép lành Ḿnh Thánh Chúa,
được phân công phục vụ luân phiên theo các nhóm gia trưởng, Mẹ gia
đ́nh, Giới Trẻ, và Thiếu Nhi Thánh Thể. Sau giờ Chầu Phép lành là
sinh hoạt Gia trưởng ( 1 tháng một lần ), Mẹ gia đ́nh ( 2 tuần một
lần ) do cha quản xứ hướng dẫn.
Ngày thường, các ngày thứ 2, thứ 4 và thứ 6, thánh
lễ ban sáng lúc 4giờ 45. Các ngày thứ 3, thứ năm và thứ 7 thánh lễ
ban chiều lúc 18giờ 30.
Hội Đồng Giáo xứ :
Hội Đồng Giáo xứ nhiệm kỳ 4 năm ( 2010 - 2014),
theo quy chế HĐGX của Giáo phận Huế, các vị có tên sau đây :
1. Ông Anrê Tống Viết Hiếu
- Chủ tịch HĐGX
2. Ông Giuse Tống Huế
- Phó CT Đối nội
3. Ông G.B. Trương Văn Năng - Phó CT Đ ngoại
4. Cô Maria Nguyễn Thị An Thuyên - Thư kư HĐGX
5. Ông Giacôbê Tống Viết Quốc - Thủ quỷ HĐGX
6. Ông Giuse Trần Quang Đại - Ủy viên Phụng Vụ
7. Ông Phêrô Trần Văn Trung - Xóm Trưởng Mân Côi
8. Ông Bênêdictô Nguyễn Thành - Xóm Phó Mân côi
9. Ông Giuse Phan Văn Lâm - Xóm Trưởng
Giuse
10. Ông G.B. Trần Văn Đăng - Xóm Phó
Giuse
11. Ông Matthêô Trần Văn Quảng - Xóm Trưởng Thánh
Tâm
12. Ông G.B. Tống Văn Tặng - Xóm Phó Thánh Tâm
VI. GIÁO XỨ NGỌC HỒ QUA CÁC ĐỜI CHA SỞ.
Trước cuộc cấm pḥng năm lịch sử (tháng 1-1864),
vùng Ngọc Hồ cũng như bao vùng quê khác, các linh mục sinh hoạt mục
vụ truyền giáo không có giới hạn. Nhưng sau đó, kể từ ngày Đức Cha
Sohier thấy t́nh h́nh tôn giáo có vẻ khả quan hơn, Ngài thay đổi
công việc hành chánh : Ngài khởi sự chia các xứ đạo lại, giao cho
một cha coi sóc, gọi là cha sở, có bằng cấp trong đó ghi rơ lănh địa
làm việc mục vụ của các ngài, không giống như trước đây nữa. Thông
lệ này kéo dài cho tới ngày nay.
V́ thế tháng 8-1867, Đức Cha đă ra một thông cáo,
xin các cha cho biết các xứ đạo trong cả địa phận. Theo thông caó đó,
giáo xứ Ngọc Hồ thuộc địa sở Phủ Cam, gồm 5 họ đạo là : Phủ Cam,
Trường An, Đá Hàn, Buồng Tằm và Ngọc Hồ. cha sở chính thức đầu tiên
của cả vùng nầy là cha Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên, người Phủ Việt,
Quảng B́nh.
- Sau cha Tuyên, các cha sở đă tuần tự lo cho giáo
xứ Ngọc Hồ gồm có : cha Luca ... Tín. Cha nầy coi hai xứ là Ngọc Hồ
và Đá Hàn, chưa rơ năm nào, nhưng biết chắc Ngài từ An Vân về thế
cha Tuyên, bớt một phần đất của cha nầy.
- Tiếp đến cha Inhaxiô Trần Ngọc Vịnh, có ở Ngọc
Hồ, cũng chưa rơ năm nào, nhưng chắc chắn trước vụ Văn Thân ở Quảng
Trị (1885). Như đă nói trên, Ngài có liên hệ với giáo xứ Ngọc Hồ,
lúc mẹ ngài lên mua đất và thường trú tại đây.
- Rồi tới cha Anrê Trần Văn Doăn, làm cha sở Ngọc
Hồ và Đá Hàn, khoảng 1881 hoặc 1886.
- Cha Giuse Hồ Đ́nh Tính, cũng có tên khác là
Giảng. Ngài con Thánh Micae Hồ Đ́nh Hy, người Nhu Lâm. Cha Ngài bị
bắt cũng v́ Ngài khi nhập chủng viện Pinang (Mă Lai) gặp thời kỳ
quân Pháp đến đánh hải cảng Đà Nẳng. Cha Tính ở Ngọc Hồ là nơi cuối
cùng của đời Ngài. Ngài đă qua đời tại đây ngày 3-4-1891 và an táng
tại nơi nầy.
- Cha Anrê Nguyễn Văn Định, người Thợ Đúc, làm cha
sở Ngọc Hồ từ 1891 đến 1894. Ngài chết và an táng tại đây (1894).
- Cha Stêphanô Lê Văn Ấn, cũng người Thợ Đúc, ở
Ngọc Hồ từ 9-1894 và tạ thế ngày 27-10-1897 tại Phủ Cam. Sau đó xác
Ngài chôn tại Ngọc Hồ.
- Cha Giuse Bùi Văn Tuyển, từ 11-1891, Ngài là cha
sở Sơn Quả. Sau đó Ngài về làm cha sở Ngọc Hồ từ năm, tháng nào chưa
rơ, cho tới 1914. Rồi Ngài xin hưu trí tại tiểu chủng viện An Ninh,
Cửa Tùng, Quảng Trị.
- Cha Phanxicô Trần Văn Đông, ở Ngọc Hồ từ 1914
đến 1917.
- Cha Giuse Nguyễn Ngọc Quyền, làm cha sở Ngọc Hồ
từ năm 1917 và Ngài qua đời tại đây ngày 10-3-1917, được an táng
trong nhà thờ Ngọc Hồ. Thờ́ gian ở đây chắc quá ít.
- Tiếp đến cha sở Ngọc Hồ là cha Micae Nguyễn Văn
Cẩm, người Tân Mỹ : từ 1917 đến 1921. Hiện nay cha Cẩm đă để lại một
di tích cho giáo xứ Ngọc Hồ là ngôi nhà thờ ( 1918-1919).
- Cha Louis Bertin (cố Khánh) làm cha sở Ngọc Hồ
từ 1922 đến 1933. Ngài ở đây chừng khoảng 13 năm, sau đó Ngài lên Đá
Hàn.
- Cha Mathêô Nguyễn Văn Thăng ở Ngọc Hồ từ 1933
đến 1938.
- Tiêp đến cha Tađêô Đổ Văn Cử (1938-1939).
Cha Phaolô Nguyễn Văn Chính, gốc người Ngọc Hồ,
cũng có ở Ngọc Hồ từ 1937-1939.
- Tiếp đến cha sở mới là Phêrô Trần Văn Lượng, chỉ
ở Ngọc Hồ từ 1940-1941.
Cha Georges Lefas cũng có lên ở Ngọc Hồ từ 1939
đến 1940.
- Cha Bertin (Khánh) đang ở Đá Hàn có về kiêm Ngọc
Hồ cho tới cuối năm 1944, Ngài về Sư Lổ. Sau đó Nhật đảo chánh, Việt
Minh lên, Ngài bị quản thúc, bị đưa ra Vinh.
Xứ Đá Hàn thuộc về cha Huỳnh Văn Thế, rồi tới cha
Đôminicô Nguyễn Văn Trân. C̣n Ngọc Hồ từ 1945 đến 1948, không rơ cha
nào làm quản xứ ? Có một điều chắc chắn, vào thời điểm nầy, ở Huế,
các vùng quê như Ngọc Hồ là nơi gặp nhiều khó khăn do chiến tranh
gây nên. Có thể các gia đ́nh công giáo đă bỏ quê hương đi nơi khác
để làm ăn sinh sống?
- Nhưng từ 1948-1949, Ngọc Hồ lại có cha sở mới là
cha Phêrô Ngô Văn Hiến. Ngài bị Tây bắn v́ ngộ sát. Xác Ngài được an
táng tại vườn nhà thờ Ngọc Hồ.
- Tiếp đến là cha Tôma Trần Văn Dụ : 1949-1952.
- Rồi tới cha già Lôrensô Trương Văn Vệ, gốc người
Ngọc Hồ, làm cha sở từ 1952-1963.
- Năm 1963, năm chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ. Kể
từ ngày đó trở đi cho tới năm 1975, t́nh h́nh ở vùng này không được
bảo đảm. Người dân đi lánh nạn các nơi khác, v́ lư do an ninh.
- Sau 3/1975 người dân hồi hương, Đức Cha Philiphê
Nguyễn Kim Điền lại đặt cha Micae Nguyễn Văn Tường làm cha sở Ngọc
Hồ : từ 1975-1980.
- Tiếp đến là cha Giuse Nguyễn Văn Chánh, quê Phủ
Cam, thay thế cha già Tường, hưu trí. Cha Chánh làm quản xứ Ngọc Hồ
từ 1980 đến 1999. Năm 1989
Ngài đă cho tu sửa lại nhà thờ, xây một dăi nhà gồm 4 pḥng để học
giáo lư.
Từ 1998, giáo xứ tiếp nhận điện lưới quốc gia,
cuộc sống văn minh hơn.
- Cha Bartôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ quản xứ từ đầu
năm 1999 - 2002, rồi về hưu trí tại Nhaø Chung. Sau đó trong khoảng
6 tháng chờ đợi, cha Gioakim Nguyễn Chí Hữu lên giúp mục vụ cho giáo
xứ.
- Cha Phêrô Lê Văn Ngọc từ 2003 - 7/ 2008, dưới
thời ngài, nhờ sự giúp đỡ của bà bác sĩ Nguyễn Quư Thể, các công
tŕnh đài Đức Mẹ Fatima, lầu chuông, nhà mục vụ, bến nước, đă được
xây dựng. Sau lễ Ngọc Khánh linh mục 29 - 6 - 2008, cha già Ngọc xin
về hưu tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang.
- Trong thời gian 9 tháng không có cha quản xứ,
các cha: Barnabê Phục, Antôn Nguyễn Văn Thăng và cha Giuse Phan Miên
lần lượt đến giúp mục vụ dâng lễ ngày Chúa nhật.
- Cha Gio-gi-ô Nguyễn Thành Phương, quê
Phủ Cam, đang ở họ Mỹ Chánh, được bổ nhiệm làm Quản xứ Ngọc Hồ.
Nghi lễ nhậm chức ngày
29.04.2009 do Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể chủ sự.

1. Cha sở chính thức đầu tiên của cả vùng nầy là
cha Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên, người Phủ Việt, Quảng B́nh.
Tháng 8-1867, Đức Cha đă ra một thông cáo, giáo xứ
Ngọc Hồ thuộc địa sở Phủ Cam, gồm 5 họ đạo là : Phủ Cam, Trường An,
Đá Hàn, Buồng Tằm và Ngọc Hồ.
2. Cha Luca ... Tín.
coi hai xứ là Ngọc Hồ và Đá Hàn, chưa rơ năm nào?
nhưng biết chắc Ngài từ An Vân về thế cha Tuyên.
3. Cha Inhaxiô Trần Ngọc Vịnh cũng chưa rơ năm nào,
nhưng chắc chắn trước vụ Văn Thân ở Quảng Trị (1885)
4. Cha Anrê Trần Văn Doăn, làm Cha sở Ngọc Hồ và
Đá Hàn, khoảng 1881 hoặc 1886.
5. Cha Giuse Hồ Đ́nh Tính
- Ngài đă qua đời tại đây ngày 3-4-1891 và an táng
tại nơi nầy.
6. Cha Anrê Nguyễn Văn Định 1891 đến 1894. Ngài
chết và an táng tại đây (1894).
7. Cha Stêphanô Lê Văn Ấn, từ 9-1894 và tạ thế
ngày 27-10-1897 tại Phủ Cam. Sau đó xác Ngài chôn tại Ngọc Hồ.
8. Cha Giuse Bùi Văn Tuyển từ 11/1891 - 1914
9. Cha Phanxicô Trần Văn Đông, từ 1914 đến 1917.
10. Cha Giuse Nguyễn Ngọc Quyền, từ năm 1917 và Ngài qua đời tại đây ngày 10-3-1917
11. Cha Micae Nguyễn Văn Cẩm từ 1917 đến 1921
12. Cha Louis Bertin (cố Khánh) từ 1922 đến 1933
13. Cha Mathêô Nguyễn Văn Thăng từ 1933 đến 1938.
14. Cha Tađêô Đổ Văn Cử (1938-1939).
15. Cha Phaolô Nguyễn Văn Chính, từ 1937-1939
16. Cha Phêrô Trần Văn Lượng, 1940-1941
17. Cha Georges Lefas 1939 đến 1940
18. Cha Phêrô Ngô Văn Hiến từ 1948-1949
19. Cha Tôma Trần Văn Dụ 1949-1952.
20. Cha Lôrensô Trương Văn Vệ 1952-1963
21. Cha Micae Nguyễn Văn Tường từ 3/1975-1980.
22. Cha Giuse Nguyễn Văn Chánh từ 1980 đến đầu
1999
23. Cha Bartôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ 1/1999 - 11/
2002
24. Cha Phêrô Lê Văn Ngọc từ 10.5. 2003 -1. 7.
2008
25. Cha Georges Nguyễn Thành Phương 29.04.2009
Nguồn : Linh mục Gio-gi-ô Nguyễn
Thành Phương (9/92011)
|