T́m
hiểu tổ chức Giáo xứ Công giáo
(Tham khảo Kinh Thánh,
Bộ Giáo Luật 1983 và tài liệu Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
1/- Khái niệm giáo xứ
Theo Bộ Giáo luật hiện hành của Giáo hội
Công giáo (ban hành năm 1983), giáo xứ (tiếng Latinh: paroecia) là
một cộng đoàn tín hữu giáo dân, mà việc chăm sóc mục vụ được giao
phó cho một linh mục, trực thuộc thẩm quyền của Giám mục của một
giáo phận. Chỉ có Giám mục giáo phận có quyền thành lập, phân chia,
giải tán, hoặc thay đổi địa giới các giáo xứ. Một khi đă được thành
lập hợp lệ, giáo xứ đương nhiên được hưởng tính cách pháp nhân theo
luật (x. GL đ.515).
Mỗi giáo xứ có phân định địa hạt rơ ràng
với số lượng tín hữu cư trú trong đó (x. GL đ.518). Giáo xứ là đơn
vị cơ bản cấu tạo thành Giáo hội Công giáo. Nhiều giáo xứ được tổ
chức thành một giáo phận dưới quyền một Giám mục. Tất cả các giáo
phận trên thế giới làm nên Giáo Hội toàn cầu dưới quyền Đức Giáo
Hoàng, là Giám mục Roma. Ngài là vị Thủ Trưởng của Giám mục đoàn.
Linh mục được trao trách nhiệm coi sóc
giáo xứ gọi là Cha xứ, là người đứng đầu, đóng vai tṛ lănh đạo giáo
xứ như một người cha trong gia đ́nh thiêng liêng của các con cái
Chúa. Cha xứ là chủ chăn riêng của giáo xứ đă được giao phó, và thi
hành việc săn sóc mục vụ phục vụ cộng đoàn được ủy thác dưới quyền
của Giám mục giáo phận, ngơ hầu chu tất nhiệm vụ giảng dạy, thánh
hóa và quản trị đối với cộng đoàn ấy, với sự cộng tác của các linh
mục khác hoặc với các phó tế và cả sự hợp lực của các giáo dân, theo
quy tắc luật định (x. GL đ.519).
2/- Giáo xứ trong
lịch sử Giáo Hội Công Giáo
Đức Giêsu, Đấng sáng lập Đạo Công Giáo,
là Thiên Chúa giáng thế làm người trong dân tộc Do Thái vùng Tiểu Á.
Năm sinh của Ngài được cả thế giới lấy làm năm 01 khởi đầu để tính
niên lịch, tới nay là năm 2016. Ngài chỉ sống ở trần thế hơn 30 năm,
lấy gương sống và lời giảng dạy mà giáo dục loài người sống theo
chân lư Ngài mạc khải để đạt tới hạnh phúc đích thực và trường tồn.
Năm 33 Ngài tự hiến thân chịu tử nạn trên Thánh giá để lập công cứu
chuộc đền tội thay cho cả nhân loại. Sau khi chết, Ngài được an táng
trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Ngài tự tác phép sống lại ra khỏi mồ rồi
vinh hiển trở về thiên giới. Sinh thời tại thế Ngài tuyển chọn và
huấn luyện 12 vị Tông đồ và 72 môn đệ để tiếp tục sự nghiệp cứu thế
mà Ngài đă khởi sự. Trước khi từ biệt các ông mà về trời, Đức Giêsu
truyền dạy các vị đó: “Anh em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền cho anh em.
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28, 19-20).
Vâng lệnh Thầy Giêsu truyền dạy và với
ơn sức Chúa Thánh Thần trợ lực, các Tông đồ và môn đệ nhiệt tâm loan
báo Tin Mừng Đạo Chúa. Thâp niên 30-40 đă có nhiều người tin theo
đạo liên kết với nhau thành cộng đoàn tín hữu đầu tiên tại
Giêrusalem thủ đô nước Do Thái. Thế là giáo xứ tiên khởi được h́nh
thành. Sinh hoạt của cộng đoàn tín hữu tiên khởi này gồm có việc
chuyên cần đến nghe các Tông đồ giảng dạy, hằng ngày cầu nguyện
chung với nhau, tham dự Thánh lễ các ngày Chủ Nhật, và tích cực làm
các việc bác ái thương yêu giúp đỡ nhau trong t́nh hiệp thông (x. Cv
2, 42 tt). Địa điểm họ qui tụ cùng nhau sinh hoạt là các cư xá tư
gia có nhà cửa rộng răi, v́ lúc đó chưa có điều kiện làm nhà thờ.
Tin Mừng mau chóng được loan đi các
thành thị làng mạc khác trong nước Do thái. Số các cộng đoàn tín hữu
thêm nhiều. Các Tông đồ lănh đạo Giáo Hội phải phân chia địa hạt cho
các cộng đoàn thành các giáo xứ, mỗi cộng đoàn giáo xứ được giao phó
cho một vị phụ trách. Vị này chính là Cha xứ lănh đạo và phục vụ
cộng đoàn, dưới quyền Tông đồ đoàn.
Dân chúng tin theo Tin Mừng đạo Chúa mau
chóng trở thành phong trào lớn mạnh. Các nhà cầm quyền trong dân Do
Thái ra tay cấm cản bắt bớ bằng bạo lực. Các tín hữu buộc phải trốn
tránh di dân sang các nước lân cận vùng Tiểu Á, và đi đến đâu họ
loan Tin Mừng đạo Chúa đến đó (x. Cv 8, 1-8). Họ truyền giảng cho
đồng bào Do Thái và cho cả dân ngoại nữa, và có rất đông người tin
theo (x. Cv 11, 19-24). Các cộng đoàn tín hữu mới bên ngoài nước Do
Thái gia tăng theo cấp số nhân nơi các sắc tộc khác nhau. Các Tông
đồ phải phân chia nhau đi khắp các nước mỗi vị phụ trách một miền
thuộc địa đế quốc La Mă. Mỗi miền đó h́nh thành một giáo phận dưới
quyền một vị Tông đồ. Vị này lo việc loan báo Tin Mừng trong giáo
phận ḿnh và cắt đặt những vị phụ trách cấp dưới điều hành các cộng
đoàn tín hữu mới theo đạo được thiết lập thành các giáo xứ mới. Tín
hữu của các giáo xứ này lại loan báo Tin Mừng cho những miền lân cận.
Tin Mừng đạo Chúa truyền bá tới đâu cũng bị cấm cản bách hại, dầu
vậy Tin Mừng như vết dầu loang chỉ trong 3 thế kỷ đă loan truyền
khắp các nước thuộc quyền đế quốc La Mă đương thời (tức là bao gồm
các nước Âu châu, Tiểu Á, Trung đông và Bắc Phi ngày nay). Các vị
Tông đồ hầu hết bị giết trong các cơn bách hại đạo. Nhưng các ngài
lại truyền chức cho các người kế vị, đó là các Giám mục. Các Giám
mục lại truyền chức cho những người cộng tác cấp dưới, đó là các
linh mục, và cắt đặt họ phụ trách các giáo xứ được h́nh thành khắp
nơi. Tiến tŕnh loan báo Tin Mừng theo lệnh của Đức Giêsu cứ như thế
tiếp tục qua các thế kỷ, tới nay đă bao trùm khắp các nước trên thế
giới.
3/- Những nhân tố cốt
yếu của một giáo xứ
Điểm qua thực tế lịch sử Giáo Hội và căn
cứ vào những qui định của bộ Giáo luật hiện hành, th́ có 2 nhân tố
cốt yếu làm nên một giáo xứ : Đó là sự hiện diện một cộng đoàn tín
hữu trong một địa bàn xác định, và một vị linh mục được Giám mục
giáo phận bổ nhiệm làm cha xứ phụ trách điều hành cộng đoàn tín hữu
ấy. Tương quan giữa hai nhân tố cốt yếu này với nhau lại phụ thuộc
vào khả năng phục vụ của cha xứ.
Vậy muốn thành lập một giáo xứ phải căn
cứ vào 3 tiêu chí liên quan tương ứng với nhau:1- số lượng các tín
hữu trong một giáo xứ, 2- diện tích địa lư của giáo xứ, 3- khả năng
phục vụ của cha xứ. Thực tế mục vụ cho thấy một linh mục thông
thường chỉ phục vụ các nhu cầu tâm linh cơ bản cho khoảng từ 500 đến
1000 người giáo dân trong một giáo xứ, tùy theo hoàn cảnh địa lư và
giao thông của khu vực: Cụ thể mật độ dân số càng ít th́ diện tích
giáo xứ càng rộng; diện tích giáo xứ càng rộng và đi lại giao thông
càng khó khăn, th́ số lượng giáo dân mà khả năng cha xứ phục vụ được
càng ít.
Để lượng định khả năng phục vụ của một
cha xứ cho cộng đoàn giáo dân, ta phải biết được sức nặng mục vụ mà
Giáo luật qui định cho cha xứ phải gánh vác, cụ thể như sau:
Điều 528: (1) Cha xứ có bổn phận dự liệu
để Lời Chúa được rao truyền cách toàn vẹn cho mọi người đang cư ngụ
trong giáo xứ; v́ thế phải lo giảng dạy các giáo dân về các chân lư
Đức Tin, nhất là nhờ việc giảng lễ trong các ngày Chúa Nhật và các
ngày Lễ Buộc, và nhờ việc dạy đạo lư; ủng hộ giúp đỡ những chương
tŕnh nhằm cổ động tinh thần Phúc Âm kể cả trong lănh vực công b́nh
xă hội; cần phải để ư cách riêng tới việc giáo dục công giáo cho
thiếu nhi và thanh niên; cố gắng, bằng mọi phương tiện có thể, cùng
với sự hợp tác của các tín hữu, để sứ điệp Phúc Âm được đạt đến với
cả những người đă lơ là việc giữ đạo hoặc không tuyên xưng Đức Tin
chân thật nữa.
(2) Cha xứ cố gắng để Bí Tích Thánh Thể
trở nên trung tâm của cộng đoàn giáo xứ; làm sao cho mọi tín hữu
được nuôi sống nhờ việc cử hành sốt sắng các bí tích, cách riêng là
thường xuyên lănh nhận Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thống Hối; ngoài
ra, hăy cố gắng hướng dẫn các tín hữu biết cầu nguyện, kể cả việc
cầu nguyện trong các gia đ́nh, và biết tham dự cách có ư thức và
tích cực vào việc phụng vụ, mà chính Cha xứ phải là người lo điều
hành trong giáo xứ ḿnh, dưới quyền của Giám Mục giáo phận, và phải
canh chừng đừng để xẩy ra những lạm dụng.
Điều 529: (1) Để siêng năng chu toàn
chức vụ chủ chăn, Cha xứ hăy t́m cách hiểu biết mọi tín hữu đă ủy
thác cho ḿnh săn sóc; v́ thế cần đi thăm viếng các gia đ́nh, san sẻ
những lo lắng, ưu tư nhất là tang tóc của các tín hữu, và để an ủi
họ trong Chúa; nếu họ có lỗi lầm ǵ, th́ phải sửa bảo họ cách khôn
khéo; đối với những bệnh nhân nhất là những người gần chết, hăy dốc
hết t́nh bác ái với họ, tăng cường sức lực cho họ bằng các Bí Tích
và phó thác linh hồn họ cho Thiên Chúa; hăy đặc biệt ân cần theo sát
những người nghèo khổ, bệnh tật, những người cô đơn, những người bị
lưu đầy và tất cả những người đang trải qua những sự khó khăn đặc
biệt; cũng phải để ư lo cho các đôi vợ chồng và những người làm cha
mẹ được nâng đỡ trong sự chu tất mọi phận sự riêng của họ và cổ vơ
sự tăng trưởng đời sống Kitô giáo trong gia đ́nh.
(2) Cha xứ hăy nhận biết và thúc giục
mọi tín hữu giáo dân góp phần riêng của họ vào sứ mệnh của Giáo Hội,
bằng cách cổ động các Hiệp Hội nhằm các mục tiêu tôn giáo. Hăy cộng
tác với Giám Mục của ḿnh và với Linh Mục đoàn của giáo phận, và làm
sao cho các tín hữu duy tŕ sự hiệp thông trong giáo xứ và chính họ
tự cảm thấy họ vừa là phần tử của giáo phận vừa là phần tử của Giáo
Hội phổ quát, và để họ dự phần cũng như nâng đỡ mọi hoạt động nhằm
làm gia tăng sự thông hiệp ấy.
Điều 530: Những trách
vụ đă được ủy thác đặc biệt cho Cha xứ là:
1. ban Bí Tích Rửa Tội;
2. ban Bí Tích Thêm Sức cho những người
đang trong lúc nguy tử, theo quy tắc của điều 883 số 3;
3. ban của Ăn Đàng và Bí Tích Xức Dầu,
tuy vẫn tôn trọng quy tắc của điều 1003 triệt 2 và 3; và ban Phép
Lành Ṭa Thánh cho các bệnh nhân;
4. chứng giám Hôn Phối và làm phép cưới;
5. cử hành lễ nghi an táng;
6. làm phép Giếng Rửa Tội trong mùa Phục
Sinh, chủ sự các cuộc rước ngoài thánh đường, và việc ban phép lành
trọng thể ngoài thánh đường;
7. cử hành thánh lễ cách trọng thể hơn
trong các ngày Chúa Nhật và trong các ngày Lễ Buộc.
Điều 533: (1) Cha Sở có bổn phận phải cư
trú trong nhà xứ gần thánh đường.
Qua đó ta thấy nhiệm vụ của cha xứ rất
nặng nề vất vả. V́ thế khi chia tách và thành lập các giáo xứ mới
phải biên chế số lượng giáo dân và diện tích địa lư của mỗi giáo xứ
cho phù hợp với khả năng phục vụ của một cha xứ. Nếu số lượng giáo
dân của giáo xứ nào lên tới hơn 1000 th́ phải bổ nhiệm thêm một cha
phó xứ cộng tác phục vụ (x. GL đ. 545). Nếu số giáo dân lên tới gần
2000 th́ phải liệu chia tách ra giáo xứ mới.
Giáo luật đ. 528, s1 cũng yêu cầu sự hợp
tác của các tín hữu với cha xứ trong công tác điều hành giáo xứ. Do
đó trong giáo xứ c̣n có tổ chức Hội Đồng Giáo xứ, Ban Hành giáo,
Giáo lư viên, Thừa tác viên chia sẻ trách nhiệm với cha xứ. Các
thành viên của các tổ chức này gồm các tu sĩ và giáo dân thiện
nguyện được cộng đoàn tín hữu trong giáo xứ tín nhiệm bầu cử vào
chức vụ theo nhiệm kỳ.
Trong hoàn cảnh c̣n thiếu linh mục, th́
cha xứ của một giáo xứ phải kiêm nhiệm phục vụ cho giáo dân các giáo
xứ lân cận nữa (x. GL đ. 516, 526), làm sao để không một giáo dân
nào bị bỏ rơi không được qui trách về một cha xứ phục vụ họ dù ở xa
xôi hẻo lánh, không một làng bản nào dù ở vùng sâu vùng xa mà không
được biên chế vào địa bàn một giáo xứ. Như thế Giáo Hội mới thực
hiện đúng lệnh truyền của Đức Giêsu loan báo và làm chứng cho Tin
Mừng đạo Chúa trong khắp mọi miền và “cho đến tận cùng trái đất” (x
Cv 1, 8).
4/- Những điều kiện
thuận lợi để một giáo xứ hoạt động
Khi đă có đủ 2 nhân tố cốt yếu ‘cộng
đoàn tín hữu và cha xứ’, Giám mục quyết định thành lập giáo xứ và
khởi động đi vào sinh hoạt ngay. Tùy theo hoàn cảnh thực tế, cha xứ
cùng với cộng đoàn tự lực tạo các điều kiện cần thiết cho giáo xứ
của ḿnh đi vào các sinh hoạt cộng đoàn chính yếu như các tín hữu
tiên khởi tại Giêrusalem thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 2, 42): cộng
đoàn thường xuyên đến nghe lời giảng dạy của cha xứ, cùng nhau cử
hành Thánh lễ tất cả các ngày Chủ Nhật, siêng năng qui tụ cầu nguyện
chung mỗi ngày, theo định kỳ họp nhau bàn định các việc liên hệ tới
công tác bác ái, cộng tác với các người thiện chí trong xă hội giúp
đỡ lẫn nhau thăng tiến đời sống ‘tốt đời đẹp đạo’. Để sinh hoạt
chung như vậy, điều kiện cần thiết là cộng đoàn phải thống nhất t́m
một địa điểm làm nơi qui tụ. Tại địa điểm đó cần có phương tiện cơ
sở vật chất phục vụ cho sinh hoạt tập thể. Cơ sở vật chất quan trọng
nhất là nhà thờ giáo xứ (x. GL đ. 1214-1215). Nhà thờ này phải đáp
ứng được quy mô sức chứa phù hợp với số lượng giáo dân của giáo xứ.
Nhà thờ giáo xứ là trung tâm của đời sống thiêng liêng nhất của
người Công giáo, v́ nó là nơi mà họ tham gia cử hành Thánh lễ thờ
phượng Thiên Chúa, lănh nhận các bí tích, thể hiện quyền lợi và
nghĩa vụ khi họ có tư cách là giáo dân thuộc giáo xứ đó. Bên cạnh
nhà thờ cần có những công tŕnh phụ trợ như: nhà ở cho cha xứ cha
phó, pḥng thường trực của Hội Đồng Giáo xứ, nhà học giáo lư, nhà
hội trường hội họp giao lưu, tu viện cho các tu sĩ giúp việc phục vụ
giáo xứ, quảng trường tập họp ngoài trời và sân chơi cho giới trẻ,
v.v…, ngay trong khu đất của nhà thờ giáo xứ hoặc khu đất liền kề
với nhà thờ. Thông thường khuôn viên nhà thờ giáo xứ cần có diện
tích đủ rộng (khoảng 10 000m2 đến 15 000m2) để xây dựng các công
tŕnh phụ trợ.
Nếu v́ lư do địa bàn giáo xứ quá rộng,
các nhóm cộng đoàn xa cách nhau, th́ xây dựng cho mỗi nhóm cộng đoàn
một nhà thờ giáo họ (hoặc một nhà nguyện cho những nhóm nhỏ c̣n gồm
ít gia đ́nh ở các giáo điểm) để giáo dân có thể đến cầu nguyện kinh
lễ chung với nhau hằng ngày (x. GL đ.1223).
Những giáo xứ trưởng thành, hoạt động đa
năng, c̣n có những cơ sở giáo dục, văn hóa và y tế như: trường lớp
các cấp học văn hóa phổ thông, mẫu giáo, lớp học t́nh thương miễn
phí, trường dạy nghề cho giới trẻ, câu lạc bộ văn hóa thể thao, bệnh
xá, nhà phát thuốc, nhà dưỡng lăo, cô nhi viện.v.v…để phục vụ rộng
răi cho toàn dân không phân biệt lương giáo.
5/- Thích ứng với mọi
hoàn cảnh, hướng tới tạo điều kiện tối ưu
Một tính năng đặc biệt của giáo xứ công
giáo là thích ứng với mọi hoàn cảnh để tồn tại và hoạt động. Bước
khởi đầu của một giáo xứ, cũng giống như thời Giáo Hội sơ khai, khi
đă được thành lập với 2 nhân tố cốt yếu nói trên là khởi động sinh
hoạt ngay, không nhất thiết phải có trước những điều kiện cần thiết.
Cộng đoàn giáo xứ t́m cách khắc phục khó khăn tạo lấy điều kiện tối
thiểu bước đầu để làm việc, và trong quá tŕnh hoạt động càng ngày
càng lo liệu cho có những điều kiện thuận lợi hơn.
Lịch sử Giáo Hội đă từng trải qua những
giai đoạn bị bách hại, trong đó các cộng đoàn tín hữu phải bí mật
trốn ẩn tụ họp nhau nghe giảng đạo trên những chiếc thuyền buồm lênh
đênh ngoài biển khơi hoặc trôi dạt trên sông nước. Có những lúc phải
lén lút rủ nhau tham dự Thánh lễ trong hang hầm toại đạo. Có khi cả
ngàn người hẹn ḥ nhau họp đại hội dưới ánh đuốc ban đêm trong khu
rừng sâu heo hút. Khi cơn bách hại gay gắt qua đi, nhưng khung cảnh
xă hội c̣n chưa thuận lợi, tín hữu c̣n nghèo khó về kinh tế, các
cộng đoàn phải mượn địa điểm tư gia có nhà cửa rộng răi để qui tụ
với nhau cầu nguyện, cử hành thánh lễ, hội họp và học hỏi giáo lư.
Suốt hơn 300 năm đầu Giáo Hội, đạo Chúa bị bách hại khi ngặt khi
khoan, chưa có giáo xứ nào xây dựng được nhà thờ, nhưng các cộng
đoàn vẫn khắc phục nhiệt thành sống đạo, Tin Mừng vẫn được loan báo
rất hiệu quả khắp lănh thổ đế quốc La Mă. Khi hoàng đế Constantin
ban hành sắc chỉ cho thần dân được tự do theo đạo năm 313, th́ đă có
tới 70% dân số theo đạo rồi. Bấy giờ trong giai đoạn xă hội thuận
lợi, các cộng đoàn giáo xứ mới cùng nhau hợp lực xây dựng cơ sở vật
chất. Hằng ngàn vạn nhà thờ nguy nga, nhà xứ khang trang rộng răi
được xây cất. Giáo xứ càng trưởng thành, hoạt động của các cộng đoàn
càng phong phú đa dạng, th́ các công tŕnh phụ trợ bên cạnh nhà thờ
giáo xứ ngày càng đầy đủ, để tạo điều kiện tối ưu cho Giáo Hội thi
hành sứ mệnh mà Đức Giêsu đă trao phó.
Sứ mệnh của Giáo Hội gồm có: loan báo
Tin Mừng đạo Chúa “khắp nơi cho đến tận cùng trái đất”; giảng dạy và
hướng dẫn mọi tầng lớp xă hội sống theo tinh thần Phúc Âm mà Đức
Giêsu đă mạc khải để đạt tới hạnh phúc đích thực; từng bước góp phần
tích cực cùng với những người thiện chí trong đất nước bài trừ tệ
nạn, xây dựng một xă hội lành mạnh tốt đẹp, gia đ́nh hạnh phúc, quốc
gia phồn vinh, thế giới ḥa b́nh thịnh vượng.
Ban Mục vụ Giáo xứ lược thảo
Nguồn :
Website GP Hưng Hóa |