
LƯỢC SỬ TRUNG
TÂM TRUYỀN GIÁO KON TRANG
VÀ GIÁO XỨ
KON TRANG MƠNEI

Nhà
thờ Kon Trang Mơnei, xă Đăk La, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum
BỐI CẢNH TRUYỀN GIÁO
TÂY NGUYÊN
Đức cha Stêphanô Cuénot Thể, Giám mục
Tông ṭa Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) sau
nhiều nỗ lực đưa người đem Tin Mừng
lên Miền Tây Nguyên qua ngả Quảng Trị hoặc Phú
Yên, nhưng đều thất bại. Năm 1848,
Thầy sáu Phanxicô Do vâng lệnh Đức cha Cuénot lại
lên đường tiến lên Tây Nguyên theo ngả
B́nh Định. Trong vai người giúp việc cho một lái
buôn, Thầy đi t́m đường và trở về
hướng dẫn các vị thừa sai lên miền Kon Tum.
Năm 1849, Thầy sáu Do đưa 2 linh mục
thừa sai là cha Combes (Bê) và cha Fontaine (Phẩm) cùng 7 Thầy giảng
lên Tây Nguyên qua ngả An Sơn (An Khê).
Năm 1850, Thầy lại hướng dẫn thêm thầy
Thám cùng 2 linh mục khác là cha Desgouts (Đề) và cha Dourisboure (Ân).
Năm 1851, Đức cha Stêphanô Cuénot (Thể)
quyết định thành lập 4 Trung Tâm Truyền
Giáo và phân nhiệm cho các linh mục
phụ trách:
-Trung Tâm Truyền Giáo Kon Kơxâm, ở
phía đông: cha Combes (Bê), Bề trên Miền,
phụ trách truyền giáo bộ tộc
Bahnar-Jơlơng.
-Trung Tâm Truyền Giáo Kon Trang, phía
bắc: cha Dourisboure (Ân), phụ trách truyền
giáo bộ tộc Xêđăng.
-Trung Tâm Truyền Giáo Plei Rơhai, ở
chính giữa: cha Desgouts và Thầy sáu Do, phụ
trách truyền giáo bộ tộc Bahnar-Rơngao.
-Trung Tâm Truyền Giáo Plei Chư, phía
nam: cha Fontaine (Phẩm), phụ trách truyền
giáo bộ tộc Jrai.
Trung Tâm Truyền Giáo Kon Trang h́nh
thành và dần dần phát triển bao gồm cả huyện
Đăk Hà, phía bắc tỉnh Kon Tum ngày
nay.
I. TRUNG TÂM TRUYỀN
GIÁO KON TRANG 1852-1922
1. Giai đoạn h́nh
thành 1852-1885
Ngày đầu năm 1852, cha Dourisboure
chính thức nhận nhiệm sở tại Kon Trang, cửa ngơ
vào vùng đất bộ tộc Xêđăng, địa điểm
trao đổi mua bán (nô lệ, vàng, đồ sắt.v.v.) giữa người
Xêđăng, Rơngao và Lào. Ngài tạm cư ngụ
chung với gia đ́nh ông Lam gồm 50 người trong
một ngôi nhà lớn và dài. Tại ngôi nhà
này, ngày 01/01/1852 ngài diễm phúc rửa tội cho một
em bé c̣n bú sắp chết, hiến dâng cho
Chúa một linh hồn đầu tiên thuộc sắc tộc Xêđăng!
Trong những tháng đầu biết bao nhiêu
là thử thách cam go. Kon Trang năm đó mất mùa,
đang cơn đói kém, ngài một ḿnh phải
lần ṃ lên tận làng Hàmong mua gạo. Ngài theo dân
làng Kon Trang đi mua bán tại các làng
làm nghề rèn, có lần bị lạc vào rừng, qua đêm trên
một gốc cây dưới những cơn mưa tầm tă
rồi sau đó bệnh kiết lỵ kéo dài làm ngài suưt mất
mạng, may mà có cha Bề trên Combes bất
ngờ đến thăm đă cứu chữa ngài thoát bệnh.
Những thử thách tinh thần cũng không
kém gay gắt. Một nỗi buồn cô độc thấm thía xâm
chiếm tâm hồn ngài, giữa một gia đ́nh
đông 50 người, luôn luôn ồn ào sôi động, đến nỗi
ngài không sao cầm trí kinh nguyện ǵ
được cả.
Cha Dourisboure ra sức học tiếng
Xêđăng và phiên dịch sách kinh và giáo lư mà cha
Combes đă soạn bằng tiếng Bana.
Giữa năm 1852, cha Arnoux (A) được chỉ
định đến Kon Trang tăng cường cho cha
Dourisboure, nhưng sang năm sau cha
Arnoux lâm bệnh nặng, phải trở về B́nh Định trong
t́nh trạng thập tử nhất sinh.
Lúc này cha Dourisboure đă có ngôi nhà
riêng do dân làng thiện cảm dựng lên cho ngài.
Ngài đă có nơi cử hành thánh lễ mỗi
ngày. Trong ngôi nhà mới của ngài, chỉ có ông Lam và con trai út của
ông là Ngui (12 tuổi) thường đến viếng thăm tṛ chuyện. Cha đă dạy
giáo lư cho Ngui và Pat (9 tuổi)
- một em bé nạn nhân của chiến tranh bị bán làm nô lệ mà cha đă
chuộc lại tại Kon Trang và
dưỡng nuôi dạy dỗ.
Ngày 16/10/1853, hai thiếu niên Giuse
Ngui và Gioan Pat đă lănh nhận phép Thánh Tẩy,
trở thành hai cánh hoa rừng đầu tiên
của Miền truyền giáo xứ Thượng.
Sang năm 1854, nhờ có Ngui tích cực
sống đạo, 4 thiếu niên khác bạn của Ngui cũng học
đạo và đă chịu phép Rửa, nâng số tân
ṭng tại Kon Trang lên 6 người. Cha Dourisboure chọn
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội làm bổn
mạng của làng 1 .
Cuối năm 1854, dân làng Kon Trang đă
dời làng của họ đến một địa điểm mới cách chỗ
cũ khoảng 3 cây số về hướng tây 2.
Vào năm 1855, ông Lam với Ngam (anh
của Giuse Ngui) xin ṭng giáo. Sau ít lâu, người
dân làng khác, theo gương cha con ông
Lam, đă xin học đạo và lănh nhận phép Rửa. Cuối
năm, cộng đoàn giáo dân Kon Trang gồm
có 20 tín hữu.
Năm 1856, Giuse Ngui, dự ṭng đầu tiên
người Xêđăng lâm bệnh và qua đời.
Năm 1857, cha Combes qua đời, cha
Dourisboure rời Kon Trang đến ở Kon Kơxâm thay cha Combes làm Bề
trên Miền truyền giáo Tây Nguyên. Lúc này số tín hữu Kon Trang đă
lên 26 người.
1 P. Dourisboure, Dân làng Hồ,
Nhà xuất bản Đà Nẵng 2008, tr. 167.
2 Về địa danh KONTRANG (KONTRANG
IOP) ṭng giáo 1853, nơi cư trú đầu tiên của cha Dourisboure tại
nhà ông LAM, bên tay phải đường
quốc lộ 14, khoảng 13 cây số, nằm sâu trong rừng một ít. Năm 1854,
dân làng bỏ nơi này chuyển về
vùng Ngô Trang bây giờ (KONTRANG HO hoặc KONTRANG KEP ) cây số 1;
KONTRANG MƠNEI ṭng giáo năm
1896, trở nên họ chính vào năm 1923 thời cha Louison (cố Lui).
Cha Verdier (Xuân) thay thế cha
Dourisboure coi sóc địa sở Kon Trang, nhưng v́ không
chịu nổi khí hậu miền núi, ngài đau
yếu thường xuyên và qua đời giữa đoàn chiên của ngài
vào ngày 21/04/1861.
Từ đó, suốt 13 năm địa sở Kon Trang
không có linh mục coi sóc. Cha Bề trên
Dourisboure gởi các chú giúp: chú Sự,
chú Quyền, trong đó chú Sự lên ở tại Kon Trang giúp
đỡ bổn đạo. Chú Sự là người đạo đức,
siêng năng và chịu khó (người Thượng gọi chú là Bok
Huê). Qua một thời gian, thấy dân làng
hay cúng vái mê tín, và các tín hữu tân ṭng cũng bị
ảnh hưởng theo mà đức tin phai nhạt,
chú Sự xin phép cha Bề trên lập làng mới gần con suối
Đăk Kơla để qui tụ ra ở riêng đó. Năm
1863, khi dời làng, chỉ có 30 người đi theo gồm
người nhà của cha Verdier trước đây.
Cha Do ở Rơhai thấy vậy cũng cho người nhà của ngài
lên phụ giúp, h́nh thành làng Kon
Trang Kơla 3 .
Năm 1864, cơn dịch đậu mùa xảy ra
trong vùng, Kon Trang gồm 2 làng: Kon Trang (số
ít có đạo) và Đăk Kơdung (ngoại giáo)
bị phân tán, một số đi lập làng chỗ Đăk Tơkok, người
đến nhập làng Kon Trang Kơla (chú Sự
mới lập), một số khác đi lập làng chỗ gọi là Kon
Trang Mơnei. Sau này làng Tơnak cũng
nhập vào làng Kon Trang Mơnei 4 .
Đến năm 1875, có cha Gioan Poirier (Tân)
lên ở phụ trách Kon Trang, nhưng chẳng bao
lâu ngài bị bệnh phải trở về Trung
Châu và chịu chết tử đạo tại họ Bàu Gốc (Quảng Ngăi)
trong thời kỳ Văn Thân.
Tháng 06/1876, cha Roger (Kính) được
bổ nhiệm coi sóc địa sở Kon Trang, được 8 năm
ngài qua đời vào ngày 15/05/1881.
Ngày 26/12/1884, cha Phêrô Irigoyen (Hương)
mới đến Miền truyền giáo Kon Tum,
được bổ nhiệm phụ trách địa sở Kon
Trang. Từ khi cha Roger qua đời đă hơn 6 tháng không
có ai coi sóc nên cơ sở nhà cửa xuống
cấp, vắng vẻ, các tín hữu giữ đạo cũng trễ nải.
2. Giai đoạn củng cố
1885-1922
Năm 1884 đánh dấu bước khởi động trở
lại với việc cha Irigoyen (Hương) được gởi đến
vùng truyền giáo này. Với những cố
gắng không mệt mỏi, cộng với một tâm hồn tông đồ đầy
nhiệt huyết, cha Irigoyen đă thu gặt
được những thành quả khích lệ.
Dần dần các làng Xêđăng xin ṭng giáo:
Dak Rơtêng (ngày 04/08/1890), Dak Kơdem (05/08/1897), Kon Trang
Mơnei (năm 1896) 5
. Địa sở lúc này đă phân chia thành
các làng nhỏ 6 :
+ Kon Trang thành: Kon Trang Kep, Đăk
Rơchăt, Kon Trang Kơla (làng chú Sự lập trước
đây).
+ Đăk Kơdung thành: Kon Trang Mơnei
7
, Kon Trang Long Loi.
+ Đăk Rơtêng thành: Đăk Rơtêng Kla và
Đăk Rơtêng Cho (cũng gọi Đăk Rơtêng Kơtu).
Năm 1885, nạn Văn Thân chém giết các
người công giáo dưới các tỉnh đồng bằng và An
Sơn (An Khê). Một số khá đông nạn nhân
trốn thoát chạy lên vùng Tây Nguyên và đến Kon
Trang rồi dần lập nên họ đạo Ngô Trang
(người Kinh).
3 P. Ban và S. Thiệt, Mở Đạo
Kontum, Imprimerie de Quinhon 05/1933, tr. 170.
4 P. Ban và S. Thiệt, sđd, tr.
170.
5
Echos de la Mission, tháng 07/1948.
6 Cha Simon Thiệt, Lược tóm gốc
tích địa phận Kon Trang, Echos de la Mission, tháng 11/1944, tr.
4-5.
7 Tên làng Kon Trang Mơnei (c̣n
viết Kon Trang Mơnây) là v́ vị trí dân làng ở có nhiều cây mơnai (Bahnar:
long mơnai), một loại cây mọc nhiều trong rừng (x. Hlabar Tơbang số
276, tháng 03/1974, tr. 20).
Cha Irigoyen xây dựng lại nhà thờ, nhà
xứ Kon Trang rộng răi, chắc chắn, xứng với một
trung tâm truyền giáo đang trên đà
củng cố và phát triển.


Nhà thờ và nhà xứ
Kon Trang năm 1900. Ảnh MEP.
Năm 1905, cha Ducateau (Quảng) được
gởi đến Trung tâm Truyền giáo Kon Trang lúc
đó đặt tại Kontrang Ho, gần Ngô Trang
ngày nay (thuộc xă Đak Kơla, khoảng cây số 12
quốc lộ 14), để phụ giúp cha Irigoyen
(Hương). Cha Irigoyen nhường cha mới địa điểm
này. Phần ngài, ngài lưu động trong
vùng để củng cố niềm tin, dạy giáo lư cho những làng
mới xin ṭng giáo.
Cha Ducateau hăng say truyền giáo các
làng chung quanh và dạy giáo lư. Năm 1910,
hai làng xin ṭng giáo: Kon Rơhăi và
Kon Tơngang. Năm 1911, cha tu sửa lại nhà thờ
khang trang hơn, với vật liệu bảo đảm
hơn: nhà cũ thành nhà mới 8
. Cũng trong năm đó, cha
đưa cha Charasson (Bảo) đang bị bệnh
về Qui Nhơn; cha Priou (Tài) thay thế một thời
gian, trông coi Kon Trang. Sau đó,
ngài trở về nhiệm sở của ḿnh 9
. 8 x. Hlabar Tơbang, địa phận
Kontum năm 1911, số 5, tr. 27
. 9 x. Hlabar Tơbang, địa phận
Kontum năm 1913 số 27 tr. 35.
Năm 1913, Đức cha Jeanningros (Vị),
Đại diện Tông ṭa, cai quản địa phận Đông Đàng
Trong (Qui Nhơn) đi kinh lư vùng
truyền giáo Thượng, đến thăm Trung tâm Truyền giáo
Kon Trang. Giáo dân đón ngài tại Dak
Kơla (lúc đó nằm tại cây số 12, ngă tư vào Ngô
Trang): nào chiêng, nào trống...vui vẻ.
Cha Priou (Tài) và cha Jamet (Minh) đến giúp dạy
giáo lư Thêm sức, giải tội. Tổ chức
linh đ́nh chưa từng thấy trên vùng này, quang cảnh
lộng lẫy vui tươi và trang trọng. Đức
cha đến, vào nhà nguyện mới sửa. Trong dịp này, ngài ban Bí tích
Thêm sức cho 100 người, và một số lănh Ḿnh Thánh Chúa. Tất cả các
làng mới ṭng giáo đều có mặt:
Kon Rơhăi, Kon Tơngang,...Trong dịp lễ này có một số giáo dân
kinh tham dự, tổ chức đoàn tông đồ
mừng Đức cha 10
.
Năm 1914-05/1915, cha Jamet (Minh) phụ
trách Kon Trang 11
.
Năm 1915, v́ thế chiến I xảy ra
(1914), lệnh tổng động viên, nên nhiều họ đạo không
có linh mục phụ trách. Cha Bề trên
Kemlin (Văn) rời vùng Kon Tum đến phụ trách Kon
Trang, một trong những địa sở rộng lớn
nhất trong vùng truyền giáo. Ngài hăng say như
xưa, v́ với tư cách là Bề trên, ngài
càng quan tâm làm gương cho mọi người. Ngài không
ngừng đi thăm các cộng đoàn, ban các
Bí tích, luôn lắng nghe những khó khăn cũng như
những khác biệt không thể tránh khỏi
trong xứ truyền giáo. Ngài quan tâm dạy giáo lư trẻ
em và theo đường hướng của Đức Giáo
Hoàng Piô X, lo lắng cho các em rước Ḿnh Thánh
Chúa càng sớm có thể. Đó là của ăn làm
phát sinh sức sống trong nơi c̣n đầy dẫy mê tín,
thực hành những dị đoan.
Năm 1915, làng Kon Kơlok xin ṭng giáo,
nhưng măi thời cha Louison (Lui) mới rửa
tội.
Năm 1919, cha Bề trên Kemlin trở lại
Kon Tum 12
.
Năm 1920, cha Simon Nguyễn Thành Thiệt
đang phụ trách Hàmong, kiêm nhiệm Kon
Trang.

10
Compte Rendu năm 1914, tr. 14.
11
Tiểu sử Lm Francois Jamet (1886-1975), Văn khố MEP.
12
Tài liệu “Lễ phong chức Đức Cha Jannin...”.
III. ĐỊA SỞ KON
TRANG MƠNEI TỪ NĂM 1922 ĐẾN NAY
1. Giai đoạn 1922-1975 : chuyển
ḿnh và vƣơn lên Cha Bề Trên Kemlin muốn chia vùng này làm hai, nên
năm 1922 gởi cha Louison (cố
Lui) lên Dak Kơdem để lập địa sở Dak Kơdem. Chẳng may cơ sở của họ
đạo bị cháy ngày 19/04/1922, nên cha Louison dọn đến ở trong pḥng
thánh của làng Kon Trang Mơnei 13 .
Năm sau (1923) cha dời nhà lên Kon
Trang Mơnei (cây số 25 trên trục quốc lộ 14 bên tay
phải đi từ Kon Tum lên) cho trung tâm
hơn. Từ đó, Kon Trang Mơnei dần dần trở thành địa
sở với tên gọi: Địa sở Kon Trang Mơnei,
bao gồm Kon Trang Kơla, Ngô Trang,...và cả
vùng cây số 12. Bổn mạng địa sở: Thánh
Têrêxa Hài đồng Giêsu.


Nhà thờ Kontrang Mơnei những năm 1920
13 Tiểu sử Lm Francois-Légis
Louison (1883-1953), Văn khố MEP.
Nguồn :
Web
site GP Kontum
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|