Lược
sử Giáo xứ ĐăkChô (bản cũ )
Địa giới
giáo xứ Đắk Chô (giáo hạt Đắk Mót, giáo phận Kon Tum) ngày nay trải
rộng trên địa bàn thuộc 3 xă: xă Kon Đào, xă Ngọk Tụ và xă Đắk Rơ
Nga của huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum.
Từ thành
phố Kon Tum, theo quốc lộ 14 đi lên hướng Bắc đến thị trấn Đắk Tô,
thẳng hướng tỉnh lộ 672 đến xă Kon Đào, đi tiếp (hướng Tu Mơ Rông)
qua khỏi Kon Đào hơn 6 km, gặp ngă ba Kon Bring rẽ trái vào một con
đường tương đối lớn và đi khoảng 1,5 km nữa là tới nhà nguyện Đắk
Chô – trung tâm của giáo xứ, thuộc xă Ngọk Tụ, huyện Đắk Tô.

H́nh 1: Nhà
nguyện giáo xứ Đắk Chô (xă Ngọk Tụ)
Hiện tại
giáo xứ Đắk Chô có 3 giáo điểm:
-Đắk
Lung có các làng: Đắk Lung, Kon Đào I và Kon Đào II (thuộc xă Kon
Đào);
-Đắk Chô
có các làng: Kon Bring, Đắk Chô, Đắk Nu, Đắk No, Đắk Tông, Đắk Tăng
(thuộc xă Ngọk Tụ);
-Đắk
Manh có các làng: Đắk Manh I, Đắk Manh II, Đắk Dé, Đắk Bung, Đắk Kon,
Đắk Gle (thuộc xă Đắk Rơ Nga).
Toàn
giáo xứ có 5.897 tín hữu, trên tổng số dân là 6.484 người (số liệu
năm 2010). Cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc Sê đăng.
Bổn mạng
giáo xứ: Thánh Phêrô tông đồ (mừng kính vào ngày 29/6 hằng năm).
Cha sở
hiện tại (từ 14.3.2010…) là linh mục Bênêđictô Nguyễn Văn B́nh.
1. LOAN BÁO TIN MỪNG CHO VÙNG ĐỒNG BÀO SÊ ĐĂNG
Ngược
ḍng lịch sử cách đây hơn 170 năm, khi công cuộc loan báo Tin Mừng
trên miền Tây Nguyên đạt được kết quả ban đầu, vào năm 1851, Đức Cha
Cuénot Thể đă thành lập 4 trung tâm truyền giáo tại miền Kon Tum:
Kon Trang là 1 trong 4 trung tâm, nằm ở hướng Bắc, nơi sinh sống chủ
yếu của cư dân Sê đăng, được trao cho cha Dourisboure (Ân) phụ trách.
(Ba trung tâm c̣n lại là: Kon Kơxâm – hướng đông, sắc dân Jơlơng;
Plei Chư: hướng nam, sắc dân Jrai; và Rơhai: sắc dân Rơngao – Bahnar,
ở chính giữa).
Trung
tâm truyền giáo Kon Trang, cửa ngơ dẫn vào vùng cư dân Sê đăng phía
Bắc Kon Tum thuở ấy là một vùng rừng núi mênh mông, xa xôi hiểm trở,
bị ngăn cách bởi địa h́nh đồi dốc và sông suối. thường xuyên mất an
ninh. Sê đăng là sắc dân hiếu động, mạnh mẽ, có ngôn ngữ đặc thù, và
là sắc dân đông nhất tỉnh Kon Tum (Theo thống kê năm 2009, người Sê
đăng ở Kon Tum có dân số 104.759 người, chiếm 24,4 % dân số toàn
tỉnh. x. “Nét văn hoá của đồng báo Sê đăng”, gpkontum.wordpress.com).
Tuy vậy,
anh em Sê đăng là những dự ṭng đầu tiên của miền đất truyền giáo
Kon Tum:
-Ngày
1.1.1852, cha Dourisboure rửa tội cho một em nhỏ Sê đăng hấp hối.
-Ngày
16.10.1853, ngài rửa tội cho Giuse Ngui và Gioan Pát, hai dự ṭng Sê
đăng đầu tiên, tại Kon Trang. (x. Dourisboure, DÂN LÀNG HỒ, Paris
1975, tr. 69 và 95).
Từ đây
cộng đoàn tín hữu đầu tiên tại vùng Sê đăng h́nh thành. Một cộng
đoàn nhỏ bé với quá nhiều thử thách từ mọi phía. Từ năm 1857, năm
cha Doursboure rời nhiệm sở Kon Trang cho đến năm 1884, thực sự là
một giai đoạn thử thách. Trong ṿng 27 năm (1857 – 1884), vùng
truyền giáo Sê đăng hầu như “dậm chân tại chỗ” mà không tiến triển
chút nào.
2. LÀNG DAK CHÔ VÀ CÁC LÀNG LÂN CẬN ĐÓN NHẬN ĐỨC TIN
Năm 1884
đánh dấu bước khởi động trở lại với việc cha Irigoyen (Hương) được
gởi đến vùng truyền giáo này. Với những cố gắng không mệt mỏi, cộng
với một tâm hồn tông đồ đầy nhiệt huyết, cha Irigoyen đă thu gặt
được những thành quả khích lệ. Dần dần các làng Sê đăng xin ṭng
giáo.
Năm
1891, làng Kon Hring đón nhận Tin Mừng. Làng Kon Hring lúc đó là một
làng đông dân (800 dân) ở cách Kon trang 30 cây số về hướng Bắc.
Năm
1904, nhiều làng lân cận khác xin trở lại đạo. Kon Hring trở thành
một trung tâm của một địa sở mới. Cha Bonnal (Bổn) được chỉ định ở
tại đây phụ trách địa sở này, chính thức vào ngày 4.4.1904.
Ngày
21.9.1905, làng Dak Kơna cách Kon Hring khoảng 15 cây số về hướng
bắc xin ṭng giáo. Cha Bonnal và chú Giáo phu làng Kon Hring bắt đầu
công việc của ḿnh, sau khi dân làng Dak Kơna cất xong ngôi nhà
nguyện bằng tre.
Khoảng
một tuần sau, 4 làng tiếp theo xin nhập đạo: đó là các làng Dak Rơnu,
Dak Tô, Kon Bring và Dak Chô. Vậy năm 1905 được xem là khởi điểm cho
hành tŕnh đức tin của giáo xứ Dak Chô ngày nay. Người Sê đăng bắt
đầu quay lưng từ bỏ tà thần, để trở nên con Thiên Chúa.
3. HỌ ĐẠO DAK CHÔ TRONG L̉NG GIÁO HỘI (ĐỊA SỞ DAK KƠNA)
Tháng
10.1905, cha Vialleton bề trên miền Kon Tum, quyết định những làng
mới vừa trở lại đạo trong vùng phía bắc Kon Hơring, từ nay lập thành
một địa sở mới: địa sở Dak Kơna, với làng Dak Kơna làm trung tâm.
Như vậy,
làng Dak Chô trực thuộc địa sở Dak Kơna, bắt đầu một hành tŕnh đức
tin mới với biết bao thử thách. Do chính sách có phần khắc nghiệt
của chính quyền Pháp đối với vùng Sê đăng này đă làm duyên cớ cho
bao nghi kỵ, chống đối. Nhân sự giáo phận eo hẹp, cha Bonnal trải
qua thời gian dài hoạt động, như bị vắt kiệt sức, ngài thường xuyên
đau ốm. Hơn nữa, tính kiêu hănh của dân Sê đăng đă làm cho họ có
phần trở nên chai ĺ, nguội lanh. Báo cáo của cha Bonnal về làng Dak
Chô thời gian đó như sau:
“Làng Đak Chô ở cách xa chỗ tôi (làng Dak Kơna) nhất mà người ta
quan sát đúng đắn và chính xác thấy họ đă tham dự những vụ cướp bóc,
mà đến ngày nay đă quen thói, từ khi đó đă tỏ ra ít sốt sắng theo
đạo đàng hoàng. Tôi đem chú giáo phu của tôi tại Đak Rơnu về, sai
đến Đak Chô. Thấy những lạm dụng đă có trong làng này, với tất cả
lễ độ, nhă nhặn theo bản chất, chú cố làm cho họ hiểu rằng cuộc sống
và tập tục của họ không tương hợp với giới luật của đạo. Họ không
chấp nhận lời chỉ giáo đó. Tôi phải rút chú và đặt nơi khác, nơi mà
chú làm việc tốt đẹp nhất. Theo Chúa quan pḥng, người con của chú ở
làng Kon Trang, một thanh niên trẻ tuổi, thông minh, can đảm, biết
đọc, tận hiến hy sinh làm chú giáo phu cho làng Dak Chô này. Ban đầu,
dân làng tỏ ra ít thiện cảm, nhưng từng bước một, nhờ sự khôn ngoan
biết sống của ḿnh, chú đă thành công thuyết phục họ; và
bây giờ, h́nh như chú đă đổi được tâm hồn làng này”.
(x.
“Tiểu sử nho nhỏ của Địa sở Dak Kơna”, La Mission de Pays-Mois en
1939, Impr. Bx. Cuenot, Kontum. Lược dịch: Lm Nguyễn Hoàng Sơn).
Năm
1918, sức khoẻ của cha Bonnal suy sụp, ngài được thuyên chuyển về
Phương Quư, mục đích để tĩnh dưỡng. Các làng thuộc địa sở Dak Kơna
lại được cha già Irigoyen (Hương) ở Kon Hring kiêm nhiệm. Tiếp đến
năm 1920 có cha Hutinet (Nh́) đến giúp một thời gian.
Tháng
2.1921, cha Lardon (Trọng) đến phụ trách địa sở Dak Kơna, 3 năm sau
ngài đau yếu và qua đời. Cha Louison từ Kon Trang phải lên giúp tạm
thời từ năm 1923.
Ngày
24.4.1924, cha Phaolô Crétin (Xuân) được chỉ định phụ trách địa sở
Dak Kơna. Phía các xứ ngoại vẫn luôn luôn đóng kín. Từ năm 1905 đến
1924, 25 năm đă trôi qua mà địa sở cũng vẫn vỏn vẹn chỉ gồm có 5
làng như lúc ban đầu!
Từ năm
1932, ơn Chúa tuôn đổ dồi dào trên vùng truyền giáo Sê đăng này.
Chúng tôi xin tóm lược lại tường thuật đón nhận Tin Mừng của làng
Dak Rơman Iop, khởi đầu cho một loạt ơn trở lại của các làng thuộc
giáo xứ Dak Chô và Dak Mót ngày nay:
Một
ngày nọ trong tháng 3.1932, làng bên lương Dak Rơman Iop cách Dak
Chô 5-6 cây số đang tổ chức lễ hội. Một trong số chú giáo phu sốt
sắng Phêrô Drê đến với họ. Trong lúc các gia trưởng họp trong nhà
rông, chú khuyên nhủ họ theo đạo. Rất ngạc nhiên, họ chất vấn cho
qua loa nhưng đầy thiện cảm.
Chú
vội về cách đó 10 cây số để tŕnh lại cho cha sở. Ngài ngạc nhiên v́
cách đó không lâu, cha có đến làng này khuyên họ, nhưng họ chối khéo.
Ngài
ấn định đến thăm, cuộc đón tiếp niềm nỡ. Họ khẳng định lại muốn xin
“đọc kinh”. Chú giáo phu giàn xếp mọi việc và tiến hành phá Yang như
đă thoả thuận. Mọi người vui mừng. (x. sđd).
Từ khởi
động đầu tiên này, liên tiếp trong mấy tháng đầu năm 1932, địa sở
Dak Kơna từ 5 làng Công giáo vọt lên 12 làng; dân số từ 700 người
giờ đây là 2.064 người, gồm tín hữu và những người muốn ṭng giáo.
Họ bằng ḷng cho con họ dưới 7 tuổi được rửa tội; họ chấp thuận làm
nhà nguyện trong làng họ và đa số họ ghi tên vào sổ dự ṭng. Đó là
các làng: Dak Rơman Iop, Dak Rơman Peng, Dak Long, Dak Mot, Dak
Tơmbiu, Dak Rơlang. Đến cuối năm có 3 làng khác nữa trở lại: Dak
Tong, Dak Mot Kram và Dak Brao.
Những
năm kế tiếp, 20 làng nữa ṭng giáo với 1.844 tín hữu.
H́nh 2: Bản
đồ Địa sở Dak Kơna
(Trích “Tiểu sử nho nhỏ của Địa sở Dak
Kơna”, La Mission de Pays-Mois en 1939,
Impr. Bx. Cuenot, Kontum
4. DAK CHÔ THÀNH ĐỊA SỞ ĐỘC LẬP
Tháng
3.1936, Đức cha Jannin (Phước) quyết định chia tách địa sở Dak Kơna
ra thành 2 địa sở mới:
-Địa sở
Dak Chô, phía đông dọc theo quốc lộ 14, có họ Dak Chô như trung tâm
điểm.
-Địa sở
Dak Môt, phía tây ngă sông Pơkô, có làng Dak Mot quan trọng làm
trung tâm.
Cha
Phaolô Renaud (Ái) được bổ nhiệm đặc trách địa sở Dak Chô, gồm 13 họ
đạo, có 4 họ đạo cũ và 9 họ đạo mới, với 1.108 giáo dân và 894 dự
ṭng. Thánh bổn mạng của địa sở: Thánh Phêrô tông đồ.
Cha
Phaolô Crétin (Xuân) nhận địa sở Dak Mot gồm trung tâm cũ Dak Kơna
và 8 họ hoàn toàn mới, với 917 giáo dân và 952 dự ṭng. Thánh bổn
mạng địa sở Dak Mot là Thánh Phaolô tông đồ. (Trung tâm cũ Dak Kơna
trở nên một họ đạo lẻ sáp nhập vào địa sở Dak Mot).

H́nh 3: Bản
đồ các địa sở trên miền Sê đăng
(Trích “La Mission de Pays-Mois en
1937”, Impr. Bx. Cuenot, Kontum)
a/ GIAI ĐOẠN 1936 – 1975: Trưởng thành trong thử thách
Dak Chô
là một làng gần 250 dân, nằm ở phía tây bắc cách thành phố Kon Tum
60 cây số, ven quốc lộ 14 – con đường giao thông quan trọng để đến
với Tây Nguyên và vùng cực bắc Tây Nguyên. Cư dân là người Sê đăng.
Cha
Renaud (Ái) đến Dak Chô vào Phục Sinh 1936, ở trong một túp lều
tranh, do giáo dân của ngài dựng nên. Ngôi nhà rất đơn sơ, gồm 2
pḥng nhỏ, 1 dành cho cha sở, một dành cho người giúp việc. Cách đó
100 mét là một nhà nguyện nhỏ, đơn sơ như trong bao sở họ khác. Cha
sở và giáo dân ấp ủ nguyện ước xây dựng một cơ sở khá hơn, xứng với
trung tâm của một địa sở lớn đang trên đà phát triển. Địa sở mới này
được đâm chồi nảy lộc nhờ sự trở lại của một số làng: Dak Hrâp, Dak
Brei gồm những xóm Dak Kơxa, Dak Rơmo và Dak Rơta Ie.
Năm
1937, địa sở Dak Chô có 13 họ đạo, 1.104 tín hữu (4 Kinh). (x. La
Mission de Pays-Mois en 1937, Impr. Bx. Cuenot, Kontum).
Cha sở
đầy hăng say, giáo dân đồng ḷng góp công góp sức, lên rừng đốn cây
gỗ đem về xây cất ngôi thánh đường và nhà xứ mới, rộng răi, chắc
chắn. Một gác chuông nhỏ đơn sơ với ngọn tháp thẳng hướng trời cao.
Ngôi nhà thờ mới được Đức Cha Jannin làm lễ khánh thành vào Phục
Sinh năm 1939. Hai ngày sau, Đức Cha ban Bí tích Thêm Sức cho 314
người.
Năm
1939, địa sở Dak Chô có 17 họ đạo với 1.340 tín hữu. (x. La Mission
de Pays-Mois en 1939, Impr. Bx. Cuenot, Kontum)
Năm 1940
– 1941, có cha Tađêô Lê Văn Nhạn đến phụ tá.
Năm
1946, thế chiến II kết thúc, linh mục Curien (Kim) phụ trách địa sở
một thời gian. Năm này số giáo dân là 1.465 người, dự ṭng là 694
người.
Năm
1948, cha Renaud một lần nữa trở lại đảm nhận địa sở này.
Năm
1949, địa sở có 14 họ đạo, 1.679 tín hữu (có 6 tín hữu Kinh), 466 dự
ṭng. (x. Echos 8/1949, tr. 8).
Năm
1955, địa sở có 9 họ đạo, 1.258 tín hữu, 12 chú Giáo phu. (x. Hlabar
Lich Misiô Kt sanăm 1956)
Năm
1956, địa sở có 18 họ đạo, 2.093 tín hữu, 23 chú Giáo phu.
Năm
1958, địa sở có 13 họ đạo, 2.188 tín hữu dân tộc, 14 tín hữu Kinh;
794 dự ṭng; 15 Giáo phu.
(x. Lịch
Công giáo địa phận Kon Tum, các năm liên hệ).
Năm
1967, chiến tranh leo thang, ngôi nhà thờ của giáo xứ Dak Chô bị bom
tàn phá b́nh địa, chỉ c̣n một đống gạch đá đổ nát. Biến cố Tết Mậu
Thân 1968, giao tranh xảy ra ác liệt, giáo dân phải tạm lánh về Dak
Tô. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, giáo dân vẫn cố gắng qui tụ, thực
hành kinh nguyện và sống đạo trong điều kiện có thể.


H́nh 4 & 5:
Vết tích trụ bê tông và gạch đá bể nát của Nhà thờ Dak Chô
Xây dựng 1939 – Bị bom tàn phá
1967
Năm
1969, sau thời gian sống chết với đoàn chiên, cha Renaud chuyển về
Toà Giám Mục Kon Tum. Cha Arnould (Nhu) đến thay thế nhận nhiệm sở
Dak Chô và Kon Hnong, giữa hoàn cảnh sôi sục chiến tranh.
Sau “mùa
hè đỏ lửa” 1972, vùng Dak Tô mất an ninh. Dân chúng trong vùng chạy
loạn đến nhiều nơi khác nhau. Giáo dân Dak Chô di tản đến Plei
Manăng, tỉnh Phú Bổn (Ayunpa ngày nay). Cuối năm 1974, số giáo dân
là 3.456. Năm 1975 số giáo dân 3.427 người.
b/ GIAI ĐOẠN 1975 – 2012: Kiên trung tiến bước trong hy vọng
Sau
tháng 5.1975, hầu hết tất cả tín hữu hồi cư về làng cũ sinh sống tại
huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum. Cũng có một số ít đi nơi khác, một số
nữa ở lại sinh sống tại Ayunpa ngày nay.
Do hoàn
cảnh chung của giáo phận thời kỳ này: thiếu linh mục trầm trọng, cơ
sở tôn giáo không c̣n. Một thời gian quá lâu không nhà thờ, không
linh mục, cộng với chính sách thắt chặt đối với tôn giáo tại vùng
này: các linh mục không được phép đến các làng trước đây để dâng
thánh lễ, ban phép bí tích; không được phép dựng nhà nguyện, dù chỉ
là nhà nguyện đơn sơ…
Dù vậy,
cộng đoàn vẫn giữ vững đức tin, vẫn duy tŕ cầu nguyện, nhờ sự giúp
đỡ can đảm của các chú Giáo phu. Giáo dân luôn t́m dịp về Nhà thờ
Chính toà Kon Tum dự Thánh lễ, nhất là Lễ Dầu, Lễ Phục Sinh và Giáng
Sinh, cũng như lănh nhận các Bí tích cần thiết. Nhưng cũng thật
nhiêu khê, mỗi lần đi về như thế thường bị phạt làm kiểm điểm, phạt
tiền, lao động công ích.v.v. Về phía Giáo Hội, Đức Giám mục Địa
phận cố gắng xin nhà nước nhiều lần cho một linh mục đảm trách toàn
vùng này nhưng chưa được giải quyết. Do vậy, giai đoạn 1975 – 1997,
giáo xứ được chăm sóc mục vụ từ các cha sở Chính toà. Từ 1986 –
1997, linh mục phụ trách là cha Giuse Nguyễn Thanh Liên.
Từ 1997
– 2003: Cha Simon Phan Văn B́nh đặc trách tín hữu dân tộc Sê đăng,
nhưng chỉ từ xa (nhà thờ Chính toà).
Từ 2003
– 2010: cha Calistô Bá Năng Lư và cha Antôn Vũ Đ́nh Long đến dâng lễ
tại Kon Đào được 5 lần rất khó khăn.
Với ưu
tư lo lắng cho anh chị em tín hữu vùng sâu vùng xa, đang gặp bao khó
khăn thiếu thốn, vào tháng 2.2007, Đức Cha Micae đă đến thăm giáo xứ
Dak Chô và ngài đă dâng thánh lễ tại nhà nguyện Dak Nu (thuộc giáo
xứ Dak Chô). Đây là thánh lễ đầu tiên tại làng Dak Nu sau hơn 40 năm
vắng bóng linh mục quản xứ.
Măi đến
năm 2008, giáo xứ Dak Chô mới có thánh lễ tại chỗ, do cha Calistô Bá
Năng Lư ở Kon Hơring, đặc trách vùng Sê đăng, chủ tế. Mỗi tháng một
lần, vào Chúa nhật đầu tháng hay cuối tháng, cha đến dâng lễ luân
phiên tại các địa điểm khác nhau trong giáo xứ.
Ngày
14/3/2010, Cha Bênêđictô Nguyễn Văn B́nh được Đức Cha Micae Hoàng
Đức Oanh bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ Đắk Chô (gồm 3 xă: Kon Đào,
Ngọc Tụ, Đak Rơnga, thuộc huyện Đak Tô, tỉnh Kon Tum), với số giáo
dân là 5.952 người. Kể từ đó, hàng tuần tại giáo xứ có Thánh lễ vào
Chúa Nhật và Thứ Năm.


H́nh 6 & 7:
Thánh lễ đầu tiên tại làng Kon Bring, Thứ năm Tuần Thánh 2010
Là một
linh mục trẻ, đầy nhiệt huyết tông đồ, cha Bênêđictô Nguyễn Văn B́nh
không những lo lắng cho cộng đoàn về mặt thiêng liêng, ngài c̣n lo
lắng t́m mọi phương thế để giáo dân có nơi phượng tự, học giáo lư…Từ
trước tới giờ, nhà nguyện được dựng lên tạm bợ, trên đất mượn của
giáo dân. Vừa nhận nhiệm sở, ngài đă hăng hái cùng với cộng đoàn bắt
tay vào việc, t́m mảnh đất mới, gom góp vật liệu…bất chấp gặp rất
nhiều cản trở, cấm đoán từ phía chính quyền huyện, xă. Nhờ ơn Chúa
giúp, với sự cộng tác đắc lực của giáo dân, từ tháng 5 – 12/2010, cả
3 giáo điểm Đắk Chô (xă Ngọk Tụ), Đắk Lung (xă Kon Đào) và Đắk Manh
(xă Đắk Rơ Nga) đều có ngôi nhà nguyện mới, tuy c̣n đơn sơ, thiếu
thốn, nhưng cũng đáp ứng nhu cầu dâng thánh lễ của mỗi cộng đoàn.
Hàng tuần, linh mục chính xứ chia thời gian đến 3 nơi để cử hành
thánh lễ và làm việc mục vụ.

H́nh 6: Nhà
nguyện Đắk Chô (xă Ngọk Tụ)

H́nh 7: Nhà
nguyện Đắk Lung (xă Kon Đào)

H́nh 8: Nhà
nguyện Đắk Manh (xă Đắk Rơnga)
Tại làng
Đắk Chô – trụ sở chính của giáo xứ, và làng Đắk Manh, cha sở và giáo
dân cũng đă xây dựng được nhà xứ, tuy nhỏ hẹp nhưng khá khang trang,
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu.

H́nh 9: Nhà
xứ Đắk Chô (xă Ngọk Tụ)

H́nh 10: Nhà
xứ Đắk Manh (xă Đắk Rơ Nga)
Cha sở cũng lo lắng thành lập và củng cố một vài hội
đoàn trong giáo xứ, như thành lập Lêgio Maria, Hội Ḷng Thương Xót
Của Chúa.v.v.
Ngày
21.2.2012, nhờ ơn Chúa thương, qua bao tháng ngày khó nhọc và kiên
nhẫn, cuối cùng giáo xứ cũng được chính quyền đồng ư cho xây một
ngôi nhà thờ tại làng Đắk Lung (tức làng Tea Long theo tiếng Sê đăng).
Đức Cha Micae và các linh mục trong giáo phận đă đến dâng thánh lễ
đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ. Vị trí nhà thờ sắp xây không
phải tại vị trí nhà nguyện Đắk Lung hiện tại, mà là gần nhà nguyện
cũ. Một niềm vui cho cộng đoàn giáo xứ Đắk Chô, mở ra hy vọng sẽ sớm
xây dựng 2 nhà thờ nữa tại làng Đắk Chô và làng Đắk Manh, khi điều
kiện thuận lợi.
Giáo xứ
Đắk Chô đang kiên trung tiến bước trong hy vọng vào niềm tin vào
t́nh thương của Thiên Chúa, với lời bầu cử của Thánh bổn mạng Phêrô
tông đồ – đá tảng vững chắc của Giáo Hội hoàn vũ, cách riêng Giáo
Hội tại vùng Bắc và cực Bắc Kon Tum của đồng bào Sê đăng và các dân
tộc khác, đang sinh sống và loan báo Tin Mừng cho hết thảy mọi người.
5. THỐNG KÊ
BẢN THỐNG KÊ 1 : GIÁO
XỨ ĐẮK CHÔ
(x.
Echos de la Mission tháng 9/1948)
TÊN HỌ
ĐẠO |
Năm ṭng
giáo |
Linh mục
phụ trách |
Năm phục
vụ |
Dak Chô |
1905 |
Cha
Bonnal |
1905 |
Dak Tô |
1905 |
Cha
Irigoyen |
1918 |
Dak
Bring |
1905 |
Cha
Lardon |
1921 |
Dak
Rơnu |
1905 |
Cha
Louison |
1923 |
Dak
Rơman |
1932 |
Cha
Crétin |
1924 |
Dak
Long |
1932 |
Cha
Renaud |
1937 |
Dak
Brao |
1933 |
Cha Lê
Văn Nhạn |
1940 |
Dak
Brei |
1934 |
Cha
Renaud |
1941 |
Dak
Tong |
1933 |
Cha
Curien |
1946 |
Dak
Hmeng |
1934 |
Cha
Renaud |
1948 |
Rang
Ria |
1935 |
|
|
Kon Du |
1935 |
|
|
Dak
Hrâp |
1938 |
|
|
Kon
Hnong |
1942 |
|
|
BẢN THỐNG KÊ 2 :
GIÁO XỨ ĐẮK CHÔ từ 1937-1975
(x. Lịch
Công giáo Địa phận Kon Tum, các năm liên hệ)
Năm |
Linh mục phụ trách |
Số họ đạo |
Số giáo dân |
Dự ṭng |
Giáo phu |
1937 |
Cha
Renaud (Ái) |
13 |
Dt: 1.100; Kinh:
4 |
|
|
1939 |
- nt - |
17 |
1.340 |
|
|
1947 |
Cha
Curien (Kim) |
|
1.465 |
694 |
|
1949 |
Cha
Renaud |
14 |
Dt: 1673; Kinh: 6 |
|
|
1955 |
- nt - |
9 |
1258 |
|
12 |
1956 |
- nt - |
18 |
2093 |
|
23 |
1958 |
- nt - |
13 |
Dt: 2.188; Kinh: 14 |
749 |
15 |
1966 |
- nt - |
9 |
2.111 |
136 |
|
1970 |
Cha
Arnould (Nhu) |
9 |
1.577 |
58 |
|
1973 |
Di tản
về Plei Manăng (Ayunpa) |
|
|
|
|
1974 |
nt |
|
3.456 |
|
|
1975 |
|
|
3.427 |
|
|
BẢN THỐNG KÊ 3:
DANH SÁCH QUÍ GIÁO PHU GIÁO XỨ ĐẮK CHÔ
Stt |
Tên |
Làng |
Ghi
chú |
Trước năm 1975 |
01 |
A-Đre |
Đắk Chô |
đă qua đời |
02 |
A-Rôn |
Đắk Chô |
nt |
03 |
A-Đan |
Đắk Chô |
nt |
04 |
A-Klo |
Đắk Chô |
nt |
05 |
A-Grim |
Đắk Chô |
nt |
06 |
A-Meng |
Đắk Chô |
nt |
07 |
A-Ruê |
Đắk Chô |
c̣n sống |
08 |
A-Nguang |
Đắk Manh |
nt |
09 |
A-Hoa |
Đắk Nu |
đă qua đời |
10 |
A-Thanh |
Đắk Nu |
nt |
Sau
năm 1975 đến nay |
01 |
Marxel. A-Bien |
Kbring |
đang phục
vụ |
02 |
Pơlê. A-Liau |
Kbring |
nt |
03 |
Anna. Y-Nin |
Kbring |
nt |
04 |
Maria. Y-Hmeo |
Kbring |
nt |
05 |
Juxe.
A-Bier |
Đắk Chô |
nt |
06 |
Nicôla. A-Miu |
Đắk Chô |
nt |
07 |
Anna. Y-Hyung |
Đắk Nu |
nt |
08 |
Anna. Y-Nghĩa |
Đắk Nu |
nt |
09 |
Pêtrô. A-Thông |
Đắk Tông |
nt |
10 |
Pêtrô. A-Hrep |
Đắk Manh I |
nt |
11 |
Inhaxiô. A-Mer |
Đắk Manh I |
nt |
12 |
Pơlê. A-Phui |
Đắk Manh I |
nt |
13 |
JoangBt. A-Nem |
Đắk Manh II |
nt |
14 |
Pêtrô. A-Klin |
Đắk Manh II |
nt |
15 |
Pêtrô. A-Xiêng |
Đắk dé |
nt |
16 |
Maria. Y-Rông |
Đắk dé |
nt |
17 |
Maria. Y-It |
Đắk pung |
nt |
18 |
Marxel.
A-Pin |
Đắk pung |
nt |
19 |
Pêtrô. A-Nghị |
Đắk pung |
nt |
20 |
Juxe. A-Krek |
Đắk kon |
nt |
21 |
Maria. Y-Pom |
Đắk kon |
nt |
22 |
Miria. Y-Díp |
Đắk kon |
nt |
23 |
Powlê. A-Sốt |
Đắk kon |
nt |
24 |
JoangBt. A-Huăk |
Đắk lung |
nt |
25 |
Zusana. Y-Bông |
Đắk lung |
nt |
26 |
Ja.Ma vianê.
A-Nghin |
Kon đào I |
nt |
27 |
Têrêsa. Y-Teo |
Kon đào I |
nt |
28 |
Maria. Y-Thiêng |
Kon đàoI |
nt |
29 |
Ôgusxtin.
A-Vôn |
Kon đào I |
nt |
30 |
Pơlê. A-Vên |
Kon đào II |
nt |
BẢN THỐNG KÊ 4: SỐ
DÂN VÀ SỐ GIÁO DÂN GIÁO XỨ ĐẮK CHÔ NĂM 2010
XĂ |
LÀNG |
DÂN SỐ |
GIÁO DÂN |
KON ĐÀO |
Đak
Lung |
468 người |
465 |
Kon
Đào I & II |
1024 người |
1024 |
Tổng cộng |
1492 |
1489 |
NGỌC TỤ |
Kon
Bring |
452 người |
452 |
Đak
Chô |
517 người |
517 |
Đak No |
238 người |
23 |
Đak Nu |
408 người |
377 |
Đak
Tông |
456 người |
456 |
Đak
Tăng |
262 người |
13 |
Tổng cộng |
2333 |
1838 |
ĐẮK RƠNGA |
Đak
Manh I |
453 người |
423 |
Đak
Manh I |
551 người |
531 |
Đak Jé |
588 người |
555 |
Đak
Pung |
487 người |
481 |
Đak
Kon |
580 người |
580 |
Tổng cộng |
2659 |
2570 |
TỔNG
CỘNG (3 Xă) |
6484 |
5897 |
BAN TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN KONTUM
MINH SƠN
Kontum, ngày 22.2.2012
GPKONTUM (25.02.2012) KONTUM
__________________________
TÀI LIỆU
THAM KHẢO:
1. “LÀM
SAO MỘT ĐỊA SỞ NƠI XỨ THƯỢNG ĐƯỢC THIẾT LẬP VÀ NẢY NỞ? – TIỂU SỬ NHO
NHỎ CỦA ĐỊA SỞ ĐAK KƠNA”, La Mission de Pays-Mois en 1939, Impr. Bx.
Cuénot, Kontum. Lược dịch: Lm Nguyễn Hoàng Sơn.
2. ĐÔI
NÉT VỀ ĐỊA SỞ ĐẮK CHÔ, Lm Bênêđictô Nguyễn Văn B́nh.
3. SƠ
LƯỢC LƯỢC SỬ GIÁO XỨ ĐẮK CHÔ, Giuse Vũ Quang Thọ.
4. ECHOS
DE LA MISSION, địa phận Kontum, các năm liên hệ.
5. LỊCH
CÔNG GIÁO ĐỊA PHẬN KONTUM, các năm liên hệ.
6. LA
MISSION DE PAYS-MOIS en 1937, Impr. Bx. Cuénot, Kontum.
——–o0o———
Nguồn : Web
site GP Kontum |