
Lược
sử Giáo xứ Tân Lư
Nguồn :
Trang web Giáo Phận Phan Thiết
Ngày nay, du khách từ Sàig̣n ra Hàm Tân, trên quốc
lộ 1A đến ngă ba 46 rẽ phải, di chuyển khoảng 20 km2
th́ đến trung tâm thị xă Lagi, sau đó hướng về cầu Tân Lư, trên
con đường tỉnh lộ Cách Mạng Tháng Tám chạy dài ra Đồi Dương Hàm
Tân, du khách sẽ thấy một ngôi thánh đường nguy nga, đó là Giáo Xứ
Tân Lư.

1/Vị Trí Địa Lư
Giáo xứ Tân Lư nằm ở phía Tây Nam của tỉnh B́nh
Thuận, là một trong những Giáo xứ lâu đời trong vùng Hàm Tân –
Lagi.
Hiện nay, Giáo xứ Tân Lư tọa
lạc ở phường B́nh Tân, thị xă Lagi, tỉnh B́nh Thuận. Phía Đông
giáp Biển Đông, phía Bắc giáp Giáo xứ B́nh An và Phước An, phía
Tây và phía Nam được bao bọc bởi con sông Dinh chảy dài ra Biển
Đông. Về khía cạnh tôn giáo, diện tích của Giáo xứ khoảng 7 km2.
Nếu dân số của huyện Hàm Tân là 105.000 dân
[1][1],
th́ giáo dân Tân Lư là 5192
[2][2]
người.
2/Giai Đoạn Phôi Thai.
Khoảng năm 1664, các nhóm
quân nhân có Đạo, gốc Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên… ṭng quân
Nam Triều vào chinh phục vùng đất Ninh Thuận, B́nh Thuận (lúc này
thuộc lănh thổ nước Chiêm Thành), sau đó, họ lưu lại luôn tại vùng
đất này. Như vậy, vào khoảng thế kỷ XVII, vùng đất B́nh Thuận đă
có người Công Giáo định cư. Chính v́ thế mà đến năm 1685, vùng
Lagi đă có khoảng 300 giáo dân (theo tài liệu của Ṭa Giám Mục Nha
Trang, USU số 105)
[3][3].
Dưới thời vua Minh Mạng
(1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), việc cấm
cách, bắt bớ đạo nặng nề. Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ năm
1848 đến năm 1862, dưới thời vua Tự Đức đă xảy ra rất nhiều biến
cố quan trọng liên quan đến đạo và đời rất phức tạp. Đó là việc
quân đội Pháp, Tây Ban Nha lấy cớ bảo vệ giáo sĩ, giáo dân, yêu
cầu được tự do truyền giáo, nổ súng tấn công Đà Nẵng (1858), Gia
Định (1859) và chiếm đóng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Trước t́nh
h́nh đó, vua Tự Đức ra nhiều chỉ dụ cấm đạo rất ngặt nghèo, chẳng
hạn : “ Đối với giáo sĩ người nước ngoài, Linh Mục bản xứ, nếu
bị bắt th́ xử tử h́nh bằng mọi h́nh thức; đối với giáo dân phải bỏ
đạo, đạp Thánh Giá, nếu không tuân hành, tùy trường hợp, hoặc tử
h́nh, hoặc đánh đ̣n, thích chữ vào mặt rồi đưa đi đày…”
[4][4].
Trong số những chỉ dụ cấm đạo của vua Tự Đức từ năm 1848 đến năm
1862, th́ chỉ dụ ban hành vào tháng 7 năm 1861 gọi là chỉ dụ “
phân sáp giáo dân” là quyết liệt và nghiêm khắc hơn cả. Với sắc
lệnh phân sáp này, cùng với những chỉ dụ trước đây của vua Tự Đức
đă ban hành từ những năm (1848, 1851, 1855, 1857, 1859, 1860), các
làng, xóm đạo trong cả nước đă phải trải qua những sóng gió và
thiệt hại rất lớn.
Trong bối cảnh đó, hàng ngàn người phải di cư lánh
nạn để trốn những cuộc truy sát của quân triều đ́nh thi hành chỉ
dụ. Trong số những người lánh nạn thời điểm đó có nhiều giáo dân
gốc Quảng Nam, B́nh Định, Phú Yên… đă trốn vào vùng Phan Rí, Ḥa
Thuận, Mũi Né, Kim Ngọc, Tầm Hưng và Lagi để tị nạn.
Sau ḥa ước Giáp Thân
(1884), tầng lớp quan lại, vơ tướng, sĩ phu, khoa mục, hào kiệt…
thuộc “Văn hào Thân sĩ ” gọi tắt là Văn Thân. Họ là những người
thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, có đầu óc bài ngoại, phản đối ḥa
ước, hô hào chống Pháp
[5][5].
V́ không đánh được quân Pháp nên họ quay sang sát hại người công
giáo mà họ cho là theo Pháp. Các nhóm Văn Thân đi khắp nơi tiếp
tục sát hại người công giáo, khiến nhiều giáo dân phải chạy vào
Hàm Tân, Bà Rịa và Sài G̣n. Một số ít thoát được cuộc tàn sát nhờ
quay sang gia nhập các nhóm Văn Thân
[6][6].
Đó là gốc tích một số gia đ́nh công giáo đă có
trước khi Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn đem người vào vùng Lagi
lập Họ Tân Lư.
3/Giai Đoạn H́nh Thành.
Một vị quan Nam Kỳ tên là
Đốc Phủ Nghiêm, được chính quyền Pháp cử ra B́nh Thuận để dẹp
phong trào Văn Thân. Ông là một người công giáo, có ḷng đạo đức.
Nhờ đó mà giáo dân có điều kiện để ổn định đời sống và xây dựng
lại nhà thờ. Mặc khác, ông là người giỏi về quân sự, nên chẳng bao
lâu, ông đă dẹp được các cuộc nổi dậy của phong trào Văn Thân. Lúc
này, lương dân theo đạo rất nhiều v́ họ nghĩ rằng, muốn không bị
phạt họ phải theo đạo công giáo. Do đó, số tín hữu ngày càng tăng,
Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn lúc này đang ở Kim Ngọc, phải lo
đi lập thêm nhiều xứ mới
[7][7].
Họ Lagi - Tân Lư được chính
thức thành lập vào khoảng năm 1885, do Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh
Ngọc Ẩn (Địa Phận Quy Nhơn) chiêu tập số giáo dân sống rải rác
trong vùng Tam Tân gốc Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên chạy loạn và
trốn bách hại, đến khai phá rừng hoang và canh tác làm ăn sinh
sống
[8][8].
An gặp an hân hoan ba chén
Nạn gặp nạn cảm mến thâm tâm.
C̣n theo “Nam Kỳ Địa Phận”,
khoảng năm 1884 – 1885, Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn ( Bảy Ẩn
) đă đem hai gia đ́nh có đạo ở Kim Ngọc
[9][9]
vào Lagi, c̣n tại đây th́ đă có hai nhà có đạo gốc Quảng B́nh tới
đó từ trước
[10][10],
và có năm nhà ngoại giáo
[11][11]
cũng xin gia nhập đạo để giữ ruộng đất mà họ đă khai phá. C̣n
nhiều người khác th́ không muốn theo đạo, sợ ở đây khó ḷng nên đă
di chuyển qua ở phía bên kia bờ tả sông Dinh. Cha Ẩn c̣n đem năm
gia đ́nh
[12][12]
mới theo đạo ở Vang Kê
[13][13]
(Khe Gà, Kê Gà) vào Lagi lập nghiệp. Tại Lagi, Cha Phanxicô Xaviê
Huỳnh Công Ẩn đă xin khẩn đất tại xóm Liên Tŕ nơi bờ tả sông Dinh,
làng Tam Tân (Tân Quư, Tân Xuân, Tân Hoàng)
[14][14],
cất một nhà thờ, và năm sau th́ lập nên làng riêng tên là Tân Lư
[15][15].
Cũng theo tài liệu quí giá
bằng chữ Hán c̣n được lưu giữ tại văn pḥng Giáo xứ Tân Lư, cho
biết như sau
[16][16]
:
a.
Linh Mục Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn
cùng với các viên chức địa phương đi khám đất. Văn bản được kư
ngày 27 tháng 3 năm Thành Thái thứ Năm tức là năm 1893, Quư Tỵ[17][17].
b.
Linh Mục Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn
làm đơn xin khẩn ruộng hoang, được các viên chức xă Tam Tân thỏa
thuận và làm tờ nhượng giao đất, kư ngày 12 tháng 10 năm Thành
Thái thứ Năm tức là năm 1893, Quư tỵ.
c.
Trước đó, để tránh sự tranh chấp về
số đất mà Linh Mục Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ân khai khẩn, phủ Hàm
Thuận (nay là Tỉnh B́nh Thuận) làm tờ trát, truyền cho xă Tam Tân
giao nhượng cho Linh Mục Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn bốn sở đất
để khai khẩn nhằm thu hoa lợi. Tờ trát kư ngày 27 tháng 5 năm
Thành Thái thứ năm tức là năm 1893, Quư tỵ.
d.
Xă Tam Tân đồng ư cắt đất ấp Liên Tŕ,
lập thành một thôn mới có tên là Tân Lư. Xă Tam Tân kư ngày 04
tháng 9 năm Thành Thái thứ bảy tức là năm 1895, Ất tỵ.
e.
Lư trưởng thôn Tân Lư xin quan tỉnh
cùng các ṭa phê chuẩn và cấp một con dấu khắc tên : Lư Trưởng
Thôn Tân Lư, để lập tên thôn mới.
f.
Một Linh Mục người Pháp tên là Pierre
Archimbaud (Cố Đức) cũng đă dẫn các viên chức địa phương đi khám
đất để chịu thuế. Sự việc được ghi nhận ngày 25 tháng 9 năm Thành
Thái thứ Bảy tức là năm 1895, Ất tỵ.
g.
Đơn trưng khẩn và gắn thành b́a địa
bộ (phân chia ranh đất) được tỉnh B́nh Thuận cấp như sau :
Phía Đông : cận giáp Cây Dừa.
Phía Tây : cận giáp Suối Đá.
Phía Nam : cận giáp Hồ Tôm.
Phía Bắc : cận giáp Núi Đất.
Như vậy, về phương diện hành chính liên quan đến
đất đai, tên gọi thôn Tân Lư đă được biết đến từ năm 1895 dưới
thời vua Thành Thái. Một con dấu (triệt) bằng đồng, h́nh vuông c̣n
được lưu giữ, chung quanh 4 cạnh có hàng chữ như sau : P. B́nh
Thuận, H. Hàm Tân, G. Phong Điền, V. Tân Lư; ở giữa có 5 chữ nho
: Tân – Lư – Thôn - …Bản.
Tuy nhiên, về phương diện tôn giáo, danh xưng Họ
đạo vẫn có tên gọi là : Họ Đạo Lagi. Một bức thư của Linh Mục
Giuse Trần Hiếu Lễ gởi cho Đức Giám Mục QUINTON có ghi như sau :
Village de Tân Lư (Lagi) được kư vào ngày 21 tháng 11 năm 1929.
Một con dấu (triệt) bằng đồng, h́nh bầu dục c̣n được lưu giữ,
chung quanh có hàng chữ như sau : Họ Công Giáo Lagi.
Ban đầu, Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh
Công Ẩn cất một nhà thờ gần mé sông nơi động cát (mănh đất ấy gọi
là “giếng đụt” Bà Hạp, nay là chùa Tân Long)
[18][18],
mà chổ này không thông khí, độc địa, nên Cha đă dời vô phía trong
gần rừng hơn, là chổ cất nhà thờ bây giờ
[19][19].
Cha con đồng vui cộng cực, cùng nhau xây dựng, chung sức phá rừng,
dỡ ruộng v́ nơi đây toàn là rừng rú và thú dữ. Một trong những
người cộng tác đắc lực của Cha Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Ẩn là ông
Tôma Vơ Văn Cam.
Từ khi h́nh thành, Họ Lagi (Tân
Lư) thuộc về Địa Phận Quy Nhơn, do các Linh Mục của Địa Phận chăm
sóc mục vụ. Măi đến năm 1909, Họ Lagi vẫn chỉ là một Họ lẻ của
Giáo xứ Cùmi, thường xuyên thiếu vắng Linh Mục
[20][20].
4/Giai Đoạn Phát Triển
a/Thuộc Địa Phận Sàig̣n.
B́nh Thuận, Đà Lạt nhượng Sàig̣n
Lagi họ đạo rời Quy Nhơn.
Năm 1905, Đức Cha Damien
GRANGEON (Hân) của Địa Phận Quy Nhơn nhượng cho Địa Phận Sài G̣n
hai tỉnh : B́nh Thuận và cao nguyên Đà Lạt
[21][21].
Từ nay, Họ Lagi không c̣n thuộc Địa Phận Quy Nhơn nữa mà thuộc về
Địa Phận Sài G̣n, các Cha thừa sai người Pháp (MEP) đă kiến thiết
đầy đủ các cơ sở cần thiết, trở thành Họ Cùmi-Lagi, nơi nghỉ mát
và săn bắn cho những ai có tính mạo hiểm xuống biển lên rừng.
Trong thời gian ở Họ, Cha Bảy Ẩn đă cho phá rừng,
tạo mặt bằng thành ruộng, đó là các phần : Ruộng Đụt (Tân Long),
Ruộng Cóc (khoảng 20 mẫu) từ giếng Đụt tới Hồ về khu nhà thờ hiện
nay. Cha coi sóc Họ được vài năm rồi đổi đi. Bổn đạo thương mến
nên hằng nhắc đến Cha luôn (1897).
Cha Thiên là cháu Cha Bảy Ẩn coi Họ khoảng 1 năm,
kế đến Cha Boivin đổi lại coi Họ trong hai năm. Chừng giao lại cho
Địa Phận Nam Kỳ (Sàig̣n) th́, Cha Sao ở tại Cùmi cùng kiêm luôn Họ
Lagi và Cùmi cửa (B́nh Giă). Cha Sao muốn cho bổn đạo Họ Lagi lo
nghiệp ruộng nương lại, song làm thử hai lần mà không khá cho nên
bỏ qua
[22][22].
Năm 1903, Linh Mục P.Guegnand (thường gọi Cha Lộc
già) tiếp quản xứ, Ngài cử ông câu (thủ bổn) là : Ông Phêrô Nguyễn
Văn Hiến trông nom nhà thờ và khai phá thêm ruộng đất. Thời gian
này, Ngài đă cho dỡ thêm ruộng như : rọc Bưng Ngang; rọc Đất Thánh
hay Bưng Ông; ruộng Bàu Dừng + Bàu Sen.
Bổn đạo hầu hết đều tốt,
phần nhiều đă học lẽ đạo khá, Cha Lộc cũng lập trường dạy đồng nhi
trong Họ. Số giáo dân lúc này khoảng 200 người
[23][23].
Nhà thờ nhỏ và chật hẹp, không được tốt, nên Cha Lộc cũng lo làm
nhà thờ mới cho rộng răi và tốt hơn, song kế đó Cha phải đổi đi.
Năm 1912, Linh Mục David thế Cha P.Guegnand. Ngài
chỉ trông coi Họ trong một thời gian ngắn. Năm 1913, Linh Mục
Triễn thế Cha David. Ngài cũng chỉ chăm sóc mục vụ trong thời gian
ngắn. Năm 1913, Linh Mục Henri Barré ( Cố Lê ) đến và ở trong ṿng
2 năm.
Thời gian này, cộng đoàn Mến Thánh Giá Thủ Thiêm
đến hiện diện tại Họ Lagi. Hai D́ tiên khởi là : D́ Út và D́ bảy
Kỷ, công việc của các D́ là dạy Giáo lư và dạy vở ḷng cho trẻ em.
Năm 1915, Linh Mục Phêrô Tuyên đến và quản xứ được
một năm. Năm 1915, Linh Mục Giuse Trần Hiếu Lễ về quản xứ. Ngài
cho lập Ban Chức Việc (Hội Đồng Mục Vụ) để cộng tác với Ngài trong
việc xây dựng nhà thờ. Thành phần Ban Chức Việc gồm:
1. Ông Tôma Ông Vơ Văn Cam (Câu
Nhất)
2. Ông Phêrô Nguyễn Văn Hiến (Câu
Nh́)
3. Ông Vơ Phú
(Biện Việc)
4. Ông Nguyễn Sửu
(Biện Việc)
5. Ông Inhaxiô Vơ Văn Giác
(Biện Sở)
6. Ông Phêrô Nguyễn Hiếu Nghĩa
(Biện Sở)
7. Ông Thành
(Biện Sở)
8. Ông Huỳnh Văn Ṭng
(Biện Sở)
9. Ông Trần Văn Quảng (Quưnh) (Biện
Sở)
Năm 1916, Ngài khởi công xây dựng nhà thờ mới trên
phần đất hiện nay, quay mặt về hướng Đông. Ngày 12 – 12 – 1918,
Đức Giám Mục Victor Charles QUINTON (TÔN) đă long trọng làm phép
nhà thờ mới này và nhận thánh Giuse làm quan thầy của Họ đạo, lễ
mừng kính vào ngày 19 – 3 hằng năm.
Cha Giuse Lễ cũng khẩn thêm ruộng đất cho Họ đạo
như sau : rạch Hộ Tang (từ nhà ông Mười Chót đến đất anh Phạm Ngọc
Thọ, gọi là đất vườn Dừa, khoảng 10 mẫu): vườn trái cây (nay là
vườn dừa Út Nề). Khi đi, Ngài giao lại cho Họ đạo.
Năm 1929, Linh Mục Micae Nguyễn Văn Giàu đến thay
thế Cha Giuse Trần Hiếu Lễ. Ngài tiến hành chỉnh tu cho Họ đạo
thêm khang trang như : tân trang lại mái nhà thờ, xây trường học
và kho lúa… Năm 1930, mua chuông (mỗi gia đ́nh đóng 1 đồng tiền
Đông Dương) trị giá 300đ.
Về ruộng đất, Ngài khẩn thêm : ruộng Láng Đá, từ
bầu Xe Ủi tới dốc Bà Tân khoảng 40 mẫu; ruộng Cây Trâm lớn, nhỏ,
trên bầu Xe Ủi lên tới Bà Tân khoảng 40 mẫu; đất thổ, xóm Gioan
Baotixita Đá Dựng khoảng 10 mẫu; đất phó Mén, trước mặt xă B́nh
Tân hiện nay tới đất ông Phạm Ngọc Thọ khoảng 3 mẫu.
Như vậy, đến thời Cha Micae Nguyễn Văn Giàu, ruộng
và đất của Họ Lagi khoảng 300 mẩu, nhưng hiện nay, chỉ c̣n khoảng
2 mẩu.
Họ đạo đang phát triển mạnh, Cha Micae Giàu chuẩn
bị xây lại nhà thờ, chưa bắt đầu th́ chiến tranh bùng nổ. Than ôi
!
Mây sầu phủ kính trời xanh
Tiếng than chuyển rẩy thác ghềnh biển khơi.
Ngày 27 – 8 – 1945, quân đội Pháp đổ bộ vào Sở
Dương, Cha Micae Nguyễn Văn Giàu và giáo dân trốn chạy lên rừng ẩn
núp. Thời gian ngắn, Cha con đùm túm trở về làng. Quân Pháp nghi
ngờ Cha theo Việt Minh và ra lệnh bắt Ngài, đưa về Phan Thiết cùng
với 2 D́ Phước : D́ Tám bị trúng đạn chết dọc đường và được mai
táng tại Phan Thiết, c̣n D́ Út chạy về đất đỏ Bà Rịa và cũng bị
bắn chết
[24][24],
nhà thờ bị đánh sập.
Đoàn chiên mất chủ chăn, bơ vơ, lạc lỏng và hoảng
sợ đi tản mác : người trốn đến vùng khác, kẻ lẽn vào rừng ẩn nấp,
bỏ vườn trống nhà hoang. Trong thời gian này, giáo dân bị bắt và
bắn chết rất nhiều. Ban Chức Việc Họ gồm 2 người : ông Trần Văn
Quảng (Quưnh) và ông Tám Thạch. Khi thấy giáo dân bỏ chạy lên rừng,
quân Pháp giận dữ bắn sập nhà thờ. Tất cả các đồ thờ phượng bị phá,
chỉ c̣n lại cái chuông mà anh chị em đă can đảm mang theo vào rừng,
và đó là di tích quí nhất của Giáo xứ Tân Lư hiện nay đang sử dụng.
Giáo xứ tan hoang, Linh Mục bị bắt, giáo dân bị
phân sáp (chia vào sống cùng lương dân ở các làng chung quanh),
nhưng tinh thần theo Chúa vẫn nồng nhiệt, niềm tin Chúa càng sáng
chói. Giáo xứ mồ côi chủ chăn, tuy nhiên vẫn vững vàng tiến lên
với Ban Chức Việc, gồm các ông : Phêrô Nguyễn Văn Dần, Giuse
Nguyễn Văn Khoẻ, Phêrô Nguyễn Văn Tín, … Các ông cố gắng qui tụ
anh chị em giáo dân và kiên tŕ hướng dẫn đời sống đạo đức trong
thời gian kháng chiến.
Thăng trầm thế sự đảo điên
Cuộc đời tan biến đức tin vẫn c̣n.
Năm 1947, dưới sự hướng dẫn của Ban Chức Việc Họ,
anh chị em đă tạm dựng một nhà nguyện bằng lá, toạ lạc tại khu đất
Tổng Hân để có nơi chốn thuận lợi cùng nhau nguyện kinh sáng tối.
Để giúp đỡ Ban Chức Việc Họ, anh chị em đă đề cử thêm 3 người để
cùng cộng tác : ông Phêrô Nguyễn Văn Thích, ông Huỳnh Gia, ông
Giuse Đặng Văn Cậy.
Năm 1948, Linh Mục Phêrô Nguyễn Bá Luật vượt qua
gian nan nguy hiểm về thăm giáo dân. Ngài an ủi, vỗ về, khuyên bảo,
động viên anh chị em giáo dân, tuy sống trong cảnh chiến tranh và
áp bức, người tín hữu Chúa Kitô của Họ đạo đă tỏ ra bén rễ sâu
trong niềm Tin Cậy Mến. Những ngày lễ lớn như : Noel, Phục Sinh…
đă được tổ chức mừng kính cách long trọng và đầy ḷng sốt sắng.
Đêm đêm vẫn có anh chị em giáo dân t́m về khu vườn,
mảnh ruộng để canh tác, ngày lại trốn lên rừng. Hoàn cảnh giữ đạo
cũng rất khó khăn, v́ vắng Linh Mục, lại trốn tránh từng khu xa
cách nhau, nên việc kinh lễ thật bất tiện. Trước t́nh h́nh đó, Ban
Quư Chức Họ hội ư với anh chị em giáo dân, quyết định dời nhà thờ
về Bàu Sót, nhưng nhà Chúa toạ lạc nơi đây vẫn không ổn, v́ nhà
thờ đă ba lần xây dựng th́ ba lần bị quân Pháp càn quét, đốt phá
tan tành. Trong hoàn cảnh đó, giáo dân buộc phải :
Ngày trốn đêm làm chờ tái thiết
Tai qua nạn hết lại hồi cư.
Năm 1953, chiến tranh Pháp – Việt phần nào bớt khốc
liệt, giáo dân ngày th́ ẩn núp, đêm th́ trở về đồng ruộng cấy cày.
Năm 1954, hiệp định Gernève được kư kết, chiến
tranh tạm lắng, giáo dân lần lượt trở về lại từng mảnh vườn thửa
ruộng của ḿnh để canh tác. Số giáo dân lúc này khoảng 500 hoặc
600 tín hữu.
Tháng 10 – 1954, Linh Mục Alber Troger được cử đến
coi sóc Họ đạo Lagi. Đặt chân đến cánh đồng truyền giáo vừa lâu
đời, vừa mới mẻ này, Cha Troger bắt tay ngay vào việc tông đồ, với
một đàn chiên đang ngơ ngát v́ những kinh hoàng của chiến tranh và
một cơ sở đổ nát tiêu tan, Cha suy tính làm ǵ cho Giáo Hội Chúa !
Lễ Giáng Sinh năm đó thật là tưng bừng, cái tưng bừng của kẻ hồi
sinh, náo nức, hồ hởi, hưng phấn, cùng với cảm động dâng tràn
trong tiếng hát “đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”. Nhà thờ bằng
lá, bằng rạ của Bàu Sót sao giống hang đá nghèo hèn và đơn sơ của
hang lừa và máng cỏ, nơi cách đó 1954 năm, Đức Giêsu đă giáng sinh
làm người.
Ngài bắt tay canh tân Họ đạo, chuẩn bị vật liệu để
xây dựng lại nhà Chúa, mời các Linh Mục Ḍng Chúa Cứu Thế về làm
tuần đại phúc để dạy giáo lư, hợp thức hóa các đôi hôn phối và rửa
tội cho các em đă lớn tuổi… Nhờ vậy, giáo dân mới dần dần đi vào
nếp sống đạo hẳn hoi, có qui củ, một luồng sinh khí mới bắt đầu
thổi vào Họ đạo Lagi.
Cũng trong thời điểm này, Họ Lagi được nâng lên
hàng Giáo xứ với tên gọi là : Giáo Xứ Tân Lư.
Tháng 7 – 1955, Linh Mục Phaolô Phan Tùng Lộc đến
thay thế Linh Mục Alber Troger. Với tư cách là Linh Mục chính xứ,
Cha Phaolô Lộc đă cho áp dụng ngay biện pháp kỷ cương để rèn luyện
và xây dựng Giáo xứ.
Xin ghi thêm rằng, năm 1945, nhà thờ Giáo xứ bị bắn
sập, các đồ thờ phượng bị thiêu hủy hoặc thất lạc, đáng kể nhất là
chiếc “ Hào Quang ” cũng bị thất lạc. Nhưng thật may mắn, cuối năm
1955, ông Phêrô Nguyễn Văn Thích đi chầu lượt ở Tầm Hừng, nhận
biết rơ chiếc hào quang có đặt Thánh Thể mà ông đang chầu đúng là
của Giáo xứ Tân Lư bị thất lạc vào thời loạn ly. Do đó, Cha Phaolô
Phan Tùng Lộc đă biên thư, sai ông Tám Út ra nhận và đem hào quang
ấy về. Hiện nay, Giáo xứ vẫn đang sử dụng.
Để đáp ứng nhu cầu mục vụ, Cha Phaolô Lộc bắt tay
vào việc xây dựng nhà Chúa, công tŕnh đang bắt đầu dỡ dang, mới
xây xong bốn bức tường th́ Ngài được bài sai đổi đi nơi khác.
b/Thuộc Địa Phận Nha Trang
Ngày 05 – 7 – 1957, Đức Thánh Cha Piô 12 kư tông
sắc thành lập Giáo Phận Nha Trang gồm 4 tỉnh : hai tỉnh Khánh Ḥa
và Ninh Thuận trước đây thuộc Địa Phận Quy Nhơn; hai tỉnh B́nh
Thuận và B́nh Tuy trước đây thuộc Địa Phận Sàig̣n. Giáo Hội cử Đức
Giám Mục Marcel PIQUET (Lợi) làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận mới
này.
Tháng 11 – 1957, Linh Mục Joseph Viot (Nhơn) vâng
lệnh bề trên về nhận chức chính xứ Tân Lư, Ngài tiếp tục xây cất
Thánh Đường và hoàn tất vào năm 1958. Cuối năm 1958, Ngài cũng xây
xong nhà xứ. Vào thời điểm này, số giáo dân khoảng chừng 400 người.
Ngài nhận một số anh chị em di cư nhập xứ, cấp đất
cho họ khai phá làm ăn, thành xóm Thanh Hương (nay là Giáo họ
Phanxicô Xaviê), góp phần làm phồn thịnh vui vẻ cho Giáo xứ. Ngài
cũng tiếp nhận 70 giáo dân nhập xứ, nay là xóm Micae, cho họ vỡ
ruộng từ nhà ông Mười Cồ đến nhà ông Mân.
Vừa mới cử hành thánh lễ tạ ơn hai cơ sở lớn và
chính yếu của Giáo xứ, Cha đă vội vàng rời xứ theo ư của Đấng Bản
Quyền.
Đầu năm 1960, Toà Giám Mục Nha Trang cử Linh Mục
Guérard Moussay (Phú) quản xứ Tân Lư. Đặt chân đến cánh đồng
truyền giáo mới, Ngài chú tâm đem Tin Mừng đến cho dân ngoại, nên
có thêm nhiều người gia nhập đạo, đồng thời Ngài cũng cảnh tĩnh
những tín hữu c̣n thờ ơ, nguội lạnh với việc đạo đức chung của
Giáo xứ. Song song với việc tinh thần, Ngài c̣n xây trường học,
nhà D́ Phước và cho tu bổ lại các cửa của nhà thờ. Trong thời gian
này, nhà cầm quyền thiết lập các ấp chiến lược, chính v́ thế, các
gia đ́nh phải bỏ các khu vườn của họ ven rừng, tập trung thành
từng xóm, sống gần nhau để dễ quản lư và bảo vệ nhau. Năm 1961,
Ngài cũng lo việc truyền giáo ở dinh điền Hiệp Nghĩa, nên có thêm
các Linh Mục phụ tá như : Linh Mục Jean Hirigoyen (Hương) từ tháng
5 – 1961 đến tháng 01 – 1962; Linh Mục Charles Nédelec (Đề) từ
tháng 01 – 1962 đến tháng 6 – 1962.
Tháng 6 – 1962, Linh Mục
Rôcô Vũ Đ́nh Hoạt được cử đến làm chính xứ Tân Lư. Cha Rôcô coi
sóc Tân Lư chỉ vỏn vẹn được 8 tháng mà Ngài đă đôn đốc dựng một
tháp chuông bằng gỗ cao 6 mét để treo cái chuông lớn – một trong
hai di tích c̣n lại của Giáo xứ Tân Lư
[25][25].
Cha hướng dẫn giáo dân cách thức trồng Laghim – trồng rau – một
nghề đă và đang phát triển mạnh, lợi nhuận nhiều cho giáo dân Tân
Lư nói riêng và cho các vùng lân cận nói chung.
Tháng 02 – 1963, Linh Mục Roger Delsuc (Sáng) thay
thế Linh Mục Rôcô Vũ Đ́nh Hoạt, quản xứ Tân Lư. Ngài coi xứ được
sáu tháng th́ đổi đi.
Tháng 9 – 1965, Linh Mục Phêrô Lê Quang Diễn được
cử làm chính xứ Tân Lư. Là một Linh Mục trẻ trung, nhiệt huyết,
hoạt bát, việc đầu tiên Ngài làm là củng cố lại Ban Hành Giáo để
có người cộng tác trong việc điều hành Giáo xứ. Ngài cho lập hội
Lêgiô Mariae; sắp xếp lại các giấy tờ, văn thư có liên quan đến
ruộng đất nhà chung; xây nhà bếp, các chuồng trại để chăn nuôi heo
gà, lập vườn và rào dậu chung quanh khuôn viên Nhà Thờ, nhà Xứ;
mua máy phát điện để thêm thuận lợi trong các công tác và sinh
hoạt của Giáo xứ; can thiệp với chính quyền để mở mang đường sá
cho dân - như đường ra nghĩa trang Tân Lư – làm hệ thống kênh
mương; mạnh mẽ áp dụng kỷ luật làm cho Giáo Xứ có trật tự và kỷ
cương hơn; xây tượng đài Đức Mẹ với lối kiến trúc mới, xây hội
trường… làm cho Giáo xứ có bộ mặt khang trang. Đặc biệt, Ngài có
công trong việc tổ chức Đại Hội Thánh Thể cho toàn hạt B́nh Tuy
tại Tân Lư.
Hơn 38 năm phục vụ Dân Chúa tại Giáo Hội Việt Nam,
9 năm cai quản Giáo Phận Nha Trang, ngày 04 – 7 – 1966, Đức Giám
Mục Marcel PIQUET (LỢI) đă qua đời. Sau gần một năm trống Ṭa,
ngày 04 – 6 – 1967, Ṭa Thánh đặt Đức Giám Mục Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận – Giám Mục người Việt Nam tiên khởi Giáo Phận Nha
Trang - làm Giám Mục chính Ṭa Giáo Phận Nha Trang :
Tam bách chu niên tiên Giám Mục
Thiên lao vạn khổ đáo Nha Trang
Tháng 9 – 1967, Linh Mục Phêrô Thái Quang Nhàn nhận
chính xứ Tân Lư, Linh Mục Phêrô Lê Quang Diễn được cử về làm Cha
giáo tại trường Chính Tâm Phan Thiết – trường PTTH Chuyên Trần
Hưng Đạo – Phan Thiết ngày nay.
Thời gian này, kinh tế trong vùng B́nh Tuy đă tiến
triển khá, giao thông thuận tiện, giáo dân làm ăn phát đạt, đua
nhau xây nhà tôn, nhà ngói hầu hết. Theo đà tiến chung, Cha xứ
cũng lo xây hồ nước, chỉnh trang lại trong xứ đủ tiện nghi hơn. Ủy
ban ruộng đất được thành lập để lo việc kiến thiết và chăm sóc
ruộng đất. Năm 1969, Ngài xây nhà nguyện Họ Đá Dựng. Năm 1970,
Ngài thành lập họ tân ṭng Tân Long và xây nhà nguyện. Ngài ban Bí
Tích Rửa Tội cho nhiều người mới nhập đạo. Xứ đạo sinh hoạt điều
ḥa theo kịp đà tiến của các Giáo xứ trong Hạt. Qua các lớp tập
huấn, giáo dân tích cực tham gia vào các công việc của Giáo xứ.
Mùa hè 1971, nhờ sự đóng góp tích cực của giáo dân, Giáo xứ đă
hoàn thành ngôi trường sơ cấp rộng lớn và khang trang.
Công cuộc chỉnh trang trong Giáo xứ tạm ổn, Ngài
cho lập các hội đoàn như : Con Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí, Gia
Trưởng, Hiền Mẫu… Để tiện việc quản lư, Ngài tiến hành chia Giáo
xứ thành 8 Giáo Xóm : Giuse, Tôma, Phêrô, Antôn, Phaolô, Micae,
Gioan Baotixita và Phanxicô Xaviê.
Tháng 7 – 1972, Linh Mục Giuse Hoàng Phượng được cử
làm chính xứ Tân Lư, thay thế Linh Mục Phêrô Thái Quang Nhàn. Ngài
xây nhà để xe tang, mua máy âm thanh trong nhà thờ.
Ngoài những công tác thuần túy tôn giáo thường nhật,
Cha Giuse Hoàng Phượng c̣n quan tâm, lo lắng đến vấn đề ruộng đất
nhà chung mà Giáo xứ đang quản lư và sử dụng. Ngài tiến hành gởi
văn thư đến các cơ quan chức năng để xin hợp pháp hóa và khai chủ
quyền ruộng đất, v́ có một số giấy tờ, lai lịch nguồn gốc đất đă
bị thất lạc từ lâu.
Cũng trong thời điểm này, Ngài trù tính bán đứt một
số lớn ruộng đất nhà chung cho các tín hữu tá điền canh tác - thực
thi luật 03/70 “ người cầy có ruộng ” của chính quyền lúc bấy giờ
- để có ngân khoản kiến thiết và trùng tu các cơ sở của Giáo xứ.
Tuy nhiên, không biết v́ nhân tố hay nguyên do nào làm cản trở,
Ngài không thể thực hiện được phương kế đă hoạch định.
V́ tuổi già sức yếu, Đấng Bản Quyền đă cho phép
Ngài hưu dưỡng tại nhà riêng ở Giáo xứ Tân Lập (Tân Thiện).
Ngày 04 – 8 – 1974, Linh mục Phanxicô Assisi Nguyễn
Cao Cầu được cử đến làm chính xứ Tân Lư. Nhận nhiệm sở xong, Ngài
liền áp dụng “Quy chế giáo dân” làm nền tảng hoạt động cho Giáo
xứ. Ngài khẩn trương mở các lớp tập huấn giáo dân về vai tṛ và
trách vụ của người tín hữu, theo định hướng của Công Đồng Vaticanô
II “ Người giáo dân phải đóng vai tṛ hàng đầu trong việc tông đồ”.
Trên tinh thần đó, Ngài luôn luôn lưu ư vai tṛ và trách nhiệm của
người giáo dân trong giai đoạn mới. Ngài nhắc nhỡ rằng :
Giáo xứ là của giáo dân, các tín hữu phải quản
trị Giáo xứ ḿnh thông qua các thành viên của Hội Đồng Mục Vụ Giáo
xứ ḿnh. Do đó, Hội Đồng Mục Vụ, các Ủy viên Giáo họ... phải tích
cực dấn thân vào mọi công việc chung của Giáo xứ”.
V́ là một Linh Mục trẻ trung, hoạt bát, đặc biệt là
rất chú tâm đến giới trẻ, Ngài đă khuyến khích, động viên các tổ
chức giáo dục và thăng tiến con người trong hai lănh vực Đạo và
Đời. V́ vậy, trong thời điểm này, các hội đoàn như : Con Đức Mẹ,
Hùng Tâm Dũng Chí, Lêgiô… đua nhau hoạt động tông đồ và phát triển
rất mạnh.
Song song với những sinh hoạt về tinh thần, Ngài
cũng lo lắng đến các cơ sở vật chất như : dựng lại tháp chuông,
trùng tu trường học, xây cất và thành lập viện cô nhi, dự tính xây
dựng lại thánh đường…
Mọi phương án đang được trù liệu và sắp xếp, th́
ngày 07 – 04 – 1976, chính quyền đương thời đưa Ngài đi khỏi Xứ
Tân Lư để “học tập cải tạo”. Từ đó, Giáo xứ không có Linh Mục nào
khác thay thế. Đến ngày 18 – 12 – 1982, sau hơn 06 năm “học tập
tốt”, Cha Phanxicô Assisi Cầu được trả tự do về chung sống với mẹ
già tại Giáo xứ Tầm Hưng, quê hương Ngài, và không được phép đi
coi xứ nào khác nữa cho đến ngày tạ thế 02 – 6 – 1991, lúc 2g sáng.
Nh́n chung, từ năm 1955 đến năm 1975, là thời gian
tương đối ổn định, do sinh kế làm ăn, người từ các phương xa đến
Giáo xứ Tân Lư lập nghiệp, một số tân ṭng và con em trong Giáo xứ
lớn lên, lập gia đ́nh riêng, nên số giáo dân tăng lên khoảng 1.400
người.
c/Thuộc Địa Phận Phan Thiết
Ngày 30 – 01 – 1975, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI kư
Tông Sắc thành lập Giáo Phận Phan Thiết, gồm 2 tỉnh : B́nh Tuy và
B́nh Thuận thuộc Giáo Phận Nha Trang, và đặt Đức Giám Mục Nicôlas
Huỳnh Văn Nghi làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Phan Thiết.
Từ ngày Cha Phanxicô Assisi Cầu ra đi, Xứ Tân Lư
không có Linh Mục thay thế. Do đó, Thầy Phêrô Nguyễn Xuân Anh,
trên cương vị là Thầy Giảng phụ trách Xứ, phải đến các Xứ lân cận
để xin các Linh Mục đến dâng thánh lễ cho giáo dân Tân Lư. Trong
số các Linh Mục đến dâng thánh lễ cho Giáo xứ, phải kể đến các Cha
già như : Cha Giuse Hoàng Phượng, Cha Augustinô Vũ Quang Huân …mặc
dù đă hưu dưỡng, nhưng mỗi lần Giáo xứ Tân Lư đến nhờ dâng lễ, các
Ngài luôn sẵn sàng, không ngại tuổi cao, bệnh tật, nắng mưa. Tuy
nhiên, lúc bấy giờ, chính quyền c̣n gây khó khăn cho các Linh Mục,
nên thánh lễ ngày Chúa Nhật tuần có tuần không, giáo dân phải đến
các Xứ lân cận tham dự thánh lễ.
Ngày 02 – 6 – 1977, Thầy Giảng Phêrô Xuân Anh cũng
bị gọi đi học tập. Sau 46 tháng học tập tốt, Thầy được trả về xứ
Tân Lư. Việc đầu tiên, Thầy đích thân mở cửa thánh đường Giáo xứ
để giáo dân lui tới đọc kinh cầu nguyện sáng tối. Đau ḷng thay !
lúc này có một số giáo dân đă trở nên thờ ơ, nguội lạnh với các
sinh hoạt đạo đức v́ đă bỏ kinh lễ lâu năm. Bên cạnh đó, nhiều đôi
hôn phối lấy nhau không hợp luật Giáo Hội.
Trước t́nh cảnh đó, Thầy Giảng luôn cố gắng tạo mọi
cơ hội và điều kiện thuận lợi như mời các Linh Mục về cử hành lễ
Cưới, lễ Giỗ, lễ An Tang…để giáo dân tham dự. Đồng thời hướng dẫn
và dạy giáo lư cho trẻ em trong xứ. Kết quả, ngày 15 – 08 – 1981,
vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 53 em được xưng tội rước lễ
lần đầu do Linh Mục Giacôbê Lê Đức Trung chính xứ B́nh An cử hành,
mặc dù việc dạy giáo lư lúc này là rất khó khăn trở ngại. Ngày 15
– 8 – 1982, có thêm 26 em được xưng tội rước lễ lần đầu. Đầu năm
1983 và các năm kế tiếp sau đó, Thầy Phêrô Xuân Anh đă đào tạo
được một số giáo lư viên để giúp Thầy trong việc dạy giáo lư cho
trẻ em, và mục đích xa hơn là có thêm nhân sự nồng cốt, ưu tú để
cộng tác với Giáo xứ trong việc giáo dục đức tin cho con em trong
Xứ.
Vào khoảng tháng 3 – 1983, vâng lời Bề Trên, Linh
Mục Giacôbê Lê Đức Trung chính xứ B́nh An đă kiêm nhiệm luôn Giáo
xứ Tân Lư. Vào mỗi ngày chúa nhật và các ngày lễ trọng trong năm,
Ngài đều đến Tân Lư để cử hành thánh lễ và ban các Bí Tích cần
thiết cho giáo dân. Ngoài ra, các ngày thường Cha cũng đến để cử
hành các lễ theo nhu cầu. Những lúc khỏe mạnh, Ngài thường xuyên
về Tân Lư để xem xét, đôn đốc các sinh hoạt và hoạt động của Thầy
Anh và Hội Đồng Mục Vụ. Đồng thời, Ngài thường xuyên đi thăm viếng,
an ủi và xức dầu cho các bệnh nhân trong Xứ.
Nhà thờ, nhà xứ dần xuống cấp, nhà trường vẫn bị
nhà nước trưng dụng nên các em phải học giáo lư trong nhà thờ.
Tháng 12 – 1980, giáo dân dựng đài thánh Giuse trước cửa nhà thờ,
Cha Giacôbê Lê Đức Trung bị nhà nước khiển trách và không cho Ngài
đi tỉnh huấn Linh Mục tại Giáo Phận. Thời gian khó khăn, hạn chế
kéo dài cho măi tới năm 1988 trở đi mới được nới rộng.
Ngày 20 – 12 – 1985, toàn thể Giáo xứ mừng kỷ niệm
100 năm thành lập. Qua một thế kỷ h́nh thành và phát triển, Giáo
xứ Tân Lư có 422 gia đ́nh công giáo, 2188 nhân danh.
Ngày 9 – 9 – 1990, Cha Giuse Nguyễn Việt Huy được
Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết, bổ
nhiệm làm chánh xứ Tân Lư. Thánh đường cũ được trùng tu từ năm
1955 đă xuống cấp, nhỏ và chật hẹp, nhà trường th́ nhà nước vẫn
đang quản lư, các cơ sở khác không có, công tŕnh xây dựng thánh
đường mới quá lớn, chưa thể thực hiện ngay được, cũng là gánh nặng
cho Cha tân quản xứ.
Với sự trẻ trung và ḷng nhiệt thành của Cha quản
xứ, Giáo xứ tuần tự xây dựng, kiến thiết và phát triển rất nhiều
mặt :
Năm 1996, xây nhà ở cho các Nữ tu, 2 pḥng học mẫu
giáo và giáo lư.
Năm 1997, xây thêm 4 pḥng học giáo lư.
Sau thời gian dài chuẩn bị, ngày 24 – 04 – 1997,
Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi cử hành thánh lễ đặt viên đá đầu
tiên xây dựng thánh đường mới.
Ngày 16 – 6 – 1997, toàn thể Giáo xứ khởi công đào
móng.
Ngày 30 – 12 – 1999, Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi
cắt băng khánh thành và cử hành thánh lễ cung hiến nhà thờ và bàn
thờ.
Ngày 09 – 9 – 2000, khánh thành nhà xứ.
Ngày 30 – 12 – 2000, hoàn chỉnh khu vực phía sau
nhà xứ.
Ngày 26 – 5 – 2002, Đức Giám Mục Phó Phaolô Nguyễn
Thanh Hoan chủ sự nghi thức khánh thành Đài Đức Mẹ.
Các công tŕnh kiến thiết tương đối đầy đủ, khuôn
viên nhà thờ rộng răi, khang trang, lối đi xung quanh rợp bóng cây
mát mẽ, tạo khung cảnh nên thơ của đồng quê Tân Lư.
Để việc tông đồ giáo dân phát triển đồng đều và đạt
hiệu quả tốt, các hội đoàn dần dần được h́nh thành trở lại : Bà Mẹ
Công Giáo; Lêgiô Mariae; Gia Trưởng; Thanh Niên; Thiếu Nhi Thánh
Thể; Têrêsa; Ca Đoàn…
Hội Đồng Mục Vụ được hoàn chỉnh, gồm những thành
phần trẻ trung, hăng hái và đạo đức, là cánh tay phải của Cha xứ,
nên việc điều hành rất thuận lợi và hữu hiệu.
Về đời sống đạo đức và truyền giáo : cộng đoàn luôn
được Cha quản xứ nhắc nhở, rèn luyện đức tin, tinh thần đoàn kết
yêu thương và hiệp nhất, nên bầu khí Giáo xứ b́nh an, vui tươi và
thắm t́nh huynh đệ. Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ, các giới, các đoàn
thể, ban nghành… luôn tích cực, hăng say, nhiệt thành tham gia mọi
công tác, sinh hoạt mục vụ tông đồ. Mỗi người đều cố gắng thể hiện
tinh thần cởi mở, hiền ḥa, hiếu khách, ḥa đồng, không phân biệt
lương hay giáo, đạo hay đời, nhờ đó mà anh em lương dân ngày càng
có thiện cảm với cộng đoàn Giáo xứ hơn.
Ngoài việc giáo dục đức tin, Cha xứ c̣n khuyến
khích các em trong Giáo xứ dâng ḿnh cho Chúa, nên các em dự tu
thường xuyên được huấn luyện đều đặn vào mỗi tối Chúa Nhật.
Số giáo dân trong giáo xứ (2005) khoảng 5195 người,
1334 gia đ́nh công giáo, chia làm 9 Giáo họ. Số thành viên trong
các đoàn thể như sau : Gia Trưởng : 1053 người; Bà mẹ : 748 người;
Thanh niên : 676 bạn; Thiếu Nhi : 1082 em; Giáo Lư Viên : 22 người;
Huynh Trưởng : 98 người; Ca Đoàn : 63 ca viên; Lễ Sinh : 20 người…
Sau 14 năm phục vụ Giáo xứ, ngày 14 – 5 – 2004, Cha
Giuse Nguyễn Việt Huy được thuyên chuyển đến Giáo xứ Tân Châu, hạt
Hàm Tân, Cha Phêrô Nguyễn Huy Hồng đến quản nhiệm Giáo xứ Tân Lư.
Ngài tiếp tục củng cố các hội đoàn, hoàn thiện thêm cho Giáo xứ cả
về cơ sở vật chất lẫn tinh thần. Tháng 3 – 2005,
Cha cho xây tường rào bao bọc đất thánh, tường dài khoảng 1.500m
bao bọc khu đất thánh và khu đất trồng cây của nhà thờ rộng trên
5ha, đồng thời xây trên 300 ngôi mộ không có người chăm sóc, một
sân lễ tại đất thánh. Năm 2006, xây nhà Cha phó. Tháng 9 – 2008,
đổ bê tông các sân xung quanh nhà thờ.
Ngày 22 tháng 04 – 2009, Cha Giuse Nguyễn Kim Anh
nhận chính xứ Tân Lư. Ngài đang cố gắng huấn luyện giáo dân và
tiến đến việc truyền giáo cho anh em lương dân trong vùng .
5/Chung Lời Tạ Ơn
Nhắc lại 125 năm h́nh thành và phát triển Giáo xứ,
chúng ta không khỏi cảm động, biết ơn, hănh diện và tin tưởng :
Cảm động v́ trên khắp vùng lănh thổ ta sống hôm
nay, đâu đâu cũng ghi dấu bước chân của các vị thừa sai, các Linh
Mục bản xứ… đem Tin Mừng đến cho chúng ta, giữa bao hiểm nguy. Cảm
động khi thấy cảnh núi rừng rậm rạp ghi dấu những ngày cha ông
chúng ta lẫn trốn.
Biết ơn v́ Mẹ Giáo Hội đă sai các nhà truyền giáo
đến mảnh đất Tam Tân xa lạ để loan Tin Mừng. Chúng ta biết ơn các
vị tông đồ truyền giáo thuộc nhiều ḍng Tu như : ḍng Tên, ḍng
Đaminh, ḍng Phanxicô, ḍng Augustinô…đặc biệt là Hội Thừa Sai
Pháp (MEP). Chúng ta ghi ơn các vị tiền nhân đă hi sinh để bảo vệ
và ǵn giữ đức tin trên mảnh đất Tân Lư này.
Hănh diện và đáng hănh diện thật ! có phải hănh
diện v́ có thánh đường khang trang, cơ sở đồ sộ ? có phải hănh
diện v́ giáo dân đông đúc ? Không, sức mạnh của Hội Thánh không
căn cứ vào vật chất, cũng không căn cứ vào số lượng, nhưng chúng
ta hănh diện v́ Thánh Giá Đức Kitô, v́ ḷng trung thành của cha
ông ta ngày trước với Hội Thánh, v́ nếp sống đạo sốt sắng, v́ đức
tin vững vàng không lây động trước cái chết, v́ chí can đảm sống
đạo và truyền đạo cho mọi người, v́ đă trưởng thành nhận lấy vai
tṛ chiến sĩ của ḿnh hợp tác và thay thế khi không có Linh Mục.
Tin tưởng không phải ở sức mạnh, tài năng của chúng
ta mà ở Ơn Chúa hằng ở cùng Hội Thánh. Trăi qua bao thử thách,
những tưởng Giáo xứ sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn, nhưng “ơn Chúa hằng
đủ cho ta”, chúng ta có các Linh Mục thánh thiện, sốt sắng, hi
sinh; có các giáo dân đoàn kết, lănh lấy trách nhiệm sống đạo, dạy
đạo, quản trị, truyền đạo thay cho các Linh Mục. Tất cả Họ đều tin
tưởng vào ơn Chúa, ở sức Chúa, ở Lời Chúa. Giờ đây, trong thời đại
duy vật, lắm lúc chúng ta t́m sự dễ dăi của thế gian mà quên đi
những giá trị của Nước Trời. Dù khó khăn đến đâu, chúng ta cũng
phải cố gắng bảo vệ hạt mầm Tin Mừng mà cha ông chúng ta đă tiếp
nhận trên mảnh đất Tân Lư thân yêu này.
Hăy nh́n quá khứ với tất cả ḷng khâm phục tạ ơn.
Hăy nh́n hiện tại với tất cả ư chí t́m kiếm không
ngừng.
Hăy nh́n tương lai với tâm hồn hăng say tin tưởng.
Không phân biệt Bắc - Trung - Nam, đạo ḍng hay tân
ṭng, mỗi người giáo dân Tân Lư phải một ḷng tôn thờ Thiên Chúa,
kính mến Đức Mẹ và noi gương thánh Giuse quan thầy; từng ngày cố
gắng đi lên trong đức tin, nâng đỡ, t́m hiểu và giúp nhau thăng
tiến trong đường đạo đức và thánh thiện.
Tài Liệu Tham Khảo
1. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n.
2. Đạo Thiên Chúa Giáo Vào Việt Nam, Nguyễn Văn
Kiệm, nxb Tôn Giáo, 2001.
3. Kỷ Yếu Địa Phận Nha Trang, Sàig̣n, 1971.
4. Giám Mục Người Nước Ngoài, Lê Ngọc Bích, nxb
Tôn Giáo, 2009.
5. 25 Năm Thành Lập Giáo Phận Phan Thiết.
6. Bản dịch chữ Hán, lưu tại văn pḥng Giáo xứ
Tân Lư.
7. Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn B́nh Thuận,
Nguyễn Đ́nh Đầu, Tp.hcm, 1996.
8. Thuận Nghĩa, Quê Hương Thánh Vũ Đăng Khoa,
Lê Quang Hưng, 2005.
9. Các Họ Đạo Cổ Xưa Của Giáo Phận Phan Thiết,
Lm. Phêrô Hoàng Vĩnh Linh.
10. Các Vị Tử Đạo Giáo Phận Phan Thiết-B́nh Thuận,
Lm. Phêrô Hoàng Vĩnh Linh.
11. Niên Giám Giáo Hội Công Giáo Việt Nam 2005.
12. Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Lm. Bùi Đức Sinh,
tái bản 1999.
13. Lược Sử Giáo Hội Việt Nam, Lm. Aug Nguyễn Văn
Trinh, xb 1990.
14. Chuyên mục “ Lagi, Vùng Đất Tụ Nghĩa” phát sóng
ngày 28 – 8 – 2009.
15. Bản Kỷ Yếu viết tay của Cha Phêrô Nguyễn Xuân
Anh.
16. Bản Kỷ Yếu viết tay của ông Giuse Hồ Xuân Hiên
17. Bản Kỷ Yếu viết tay của Giáo xứ Tân Lư.
[1][1]
Số liệu thống kê năm 2009, chuyên mục “ Lagi, Vùng Đất Tụ
Nghĩa” phát sóng ngày 28 – 8 – 2009.
[2][2]
Số liệu thống kê năm 2005, lưu tại văn pḥng Giáo xứ Tân Lư và
Ṭa Giám Mục Phan Thiết.
[3][3]
x. Kỷ Yếu Địa Phận Nha Trang, Sàig̣n, 1971, trg 86.
[4][4]
x. Sự Du Nhập Của Đạo Thiên Chúa Giáo Vào Việt Nam, Nguyễn Văn
Kiệm, Tôn Giáo, 2001, trg 80.
[5][5]
x. Sự Du Nhập Của Đạo Thiên Chúa Giáo Vào Việt Nam, Nguyễn Văn
Kiệm, Tôn Giáo, 2001, trg 84.
[6][6]
x. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n, trg 139.
[7][7]
x. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n, trg 250.
[8][8]
x. Kỷ Yếu Địa Phận Nha Trang, Sàig̣n, 1971, trg 125.
[9][9]
Một trong hai gia đ́nh ấy là gia đ́nh ông Tôma Vơ Văn Cam, bố
ông Phêrô Vơ Thái Sang ( Phó Bộ )
[10][10]
Một trong hai gia đ́nh ấy là gia đ́nh bà Matta Lê Thị Lai, mẹ
vợ của ông Lư Niệm
[11][11]
Một trong năm gia đ́nh ấy là gia đ́nh ông Lư Niệm, bố của ông
Phêrô Nguyễn Hiếu Nghĩa (Tổng Nghĩa) đă hiến đất xây nhà thờ
hiện nay.
[12][12]
Một trong năm gia đ́nh ấy là gia đ́nh ông Phêrô Nguyễn Văn
Hiến, bố nuôi của ông Tổng Nghĩa.
[13][13]
Nay là Giáo họ Cửa Cạn thuộc Giáo xứ Hiệp Nghĩa, hạt Hàm Thuận
Nam, Giáo Phận Phan Thiết.
[14][14]
x. Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn B́nh Thuận, Nguyễn Đ́nh Đầu,
Tp.hcm, 1996, trg 59.
[15][15]
x. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n, trg 522.
[16][16]
Bản dịch chữ Hán, lưu tại văn pḥng Giáo xứ Tân Lư.
[17][17]
Vua Thành Thái lên ngôi ngày 28 tháng 01 năm
1988, Thành Thái ngũ niên tức là năm 1893.
[18][18]
x. 25 Năm Thành Lập Giáo Phận Phan Thiết, trg 95.
[19][19]
Phần đất này do gia đ́nh ông Phêrô Nguyễn Hiếu Nghĩa (Tổng
Nghĩa) dâng cúng.
[20][20]
x. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n, trg 524.
[21][21]
x. Giám Mục Người Nước Ngoài, Lê Ngọc Bích, Tôn Giáo, 2009,
trg 106.
[22][22]
x. Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ 14, 1922, Sàig̣n, trg 523.
[24][24]
x. Kỷ Yếu Địa Phận Nha Trang, Sàig̣n, 1971, trg 126.
[25][25]
Cái chuông và Hào Quang chầu thánh thể hiện nay vẫn càn sử
dụng.
Địa chỉ liên hệ: |
|
P. B̀NH TÂN - THỊ XĂ LAGI - B̀NH
THUẬN
Điện thoại:0623.843160 |
Năm thành lập: |
|
(1885) |
Số giáo dân hiện nay: |
|
(4124) |
Bổn mạng và ngày lễ: |
|
THÁNH GIUSE (19-03)(ngaylemung) |
..........................................................

Giáo xứ Tân
Lư khai Mạc Năm Thánh kỉ niệm 125 năm thành lập
Sáng ngày 20.3.2010, Giáo xứ Tân Lư, hạt Hàm tân, Gp Phan Thiết
hân hoan đón mừng Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Quư Cha, nam nữ tu
sĩ và quan khách đến chia vui và hiệp dâng lời tạ ơn Thiên Chúa
trong thánh lễ Khai Mạc Năm Thánh nhân dịp giáo xứ kỉ niệm 125 năm
thành lập (1885-2010).

Đôi nét lịch sử thành lập
Nh́n ngắm ngôi thánh đường khang trang rực rỡ cờ hoa mừng 125 năm
thành lập của Giáo xứ Tân Lư hôm nay, chợt nhớ về những ngày đầu
h́nh thành giáo xứ với biết bao công lao khó nhọc của cha ông ngày
trước. Câu chuyện khởi đầu từ cách đây hơn 300 năm (khoảng năm 1685)
đă có 300 giáo dân hiện diện tại Hàm Tân, nhưng gần sau 200 năm
không c̣n tài liệu nào nói đến số tín hữu này.
Lich sử giáo xứ chính thức biết đến từ năm 1885, khi cha Phanxicô
Xaviê Huỳnh Công Ẩn dẫn một số giáo dân gốc Quảng Nam, B́nh Định vào
Tam Tân lập nghiệp. Dưới thời Thành Thái, ngày 4.9.1895, năm Ất Tỵ,
một thôn mới tên Tân Lư được thiết lập, và nơi đây họ đạo mới có tên
là Lagi. Từ năm 1905, họ đạo Lagi thuộc địa phận Tây Đàng Trong (Sài
G̣n) với linh mục quản xứ tiên khởi chính là cha Phanxicô Xaviê
Huỳnh Công Ẩn. Nhà thờ đầu tiên được dựng lên tại đất “Giếng Đụt”
(nay là chùa Tân Long), Năm 1916, cha Giuse Trần Hiếu Lễ khởi công
xây dựng nhà thờ mới trên phần đất hiện nay. Ngày 12.12.1918, ĐGM
Quinton long trọng làm phép nhà thờ mới và Thánh Giuse được nhận làm
Bổn Mạng họ đạo. Tháng 10.1954, tên gọi họ đạo Lagi được thay thế
bằng Giáo xứ Tân Lư như hiện nay.
V́ thời cuộc, từ năm 1976 đến năm 1990, giáo xứ không có linh mục
quản xứ, công tác mục vụ do cha quản xứ B́nh An đảm trách. Đến năm
1990, Tân Lư vui mừng đón cha Giuse Nguyễn Việt Huy chính thức về
làm quản xứ. Như cây được hồi sinh sau thời hạn hán, với tất cả
nhiệt tâm, toàn thể giáo dân một ḷng cùng với cha quản xứ xây dựng
và phát triển Tân Lư mỗi ngày một tươi đẹp hơn.

Và Tân Lư hôm nay
Nhà thờ giáo xứ Tân Lư hiện nay tọa lạc ở phường B́nh Tân, thị xă
Lagi, tỉnh B́nh Thuận. Diện tích của giáo xứ khoảng 7 km2 với số
giáo dân Tân Lư là 5192, giáo xứ đang trên đà phát triển mạnh các
hoạt động tôn giáo và xă hội dưới sự hướng dẫn của cha quản xứ Giuse
Nguyễn Kim Anh. Giáo dân mọi giới hầu như tham gia vào các hội đoàn.
Với tuổi đời 125, Tân Lư thuộc vào hàng những giáo xứ lâu năm nhất
của GP Phan Thiết. Cha Giuse Kim Anh qua Đức Giám Mục GP đă xin mở
Năm Thánh cho giáo xứ và được Ṭa thánh chấp nhận. Hồng Ân Năm
Thánh125 năm là dịp để mỗi người trong giáo xứ nh́n lại những ơn
thiêng Chúa ban cho giáo xứ nói chung và từng người nói riêng mà
dâng lời tạ ơn và quyết tâm sống xứng với những ơn thiêng đó. Trong
tâm t́nh Năm Thánh, Tân Lư tu sửa nhà thờ, sơn lại mái ngói, cửa nhà
thờ Tân Lư, làm sân nhà thờ Tân Long, xây bờ kè ruộng Đức Mẹ, phục
hồi việc ngắm 15 sự thương khó. Bên cạnh đó giáo xứ đóng thêm bàn
ghế cho các lớp giáo lư, phát vở cho học sinh trong xứ, phát quà cho
học sinh lương nghèo tại các trường trong phường, giao hảo với anh
em lương dân, quan tâm đến người nghèo trong các dịp lễ. v.v. tất cả
công việc đều được anh chị em giáo dân gởi trọn trong tâm t́nh tạ ơn
Thiên Chúa và Thánh Cả Giuse.

Xin cùng hiệp thông lời tạ ơn và nguyện xin cho giáo xứ Tân Lư
tiếp tục phát triển ngày càng tốt đẹp hơn trong Thánh ư Chúa như lời
nhắn gởi của Đức Cha Giuse về ba mục đích chính của năm thánh kỷ
niệm 125 năm thành lập giáo xứ là: Ghi ân tiền nhân; Tạ ơn Thiên
Chúa; Hiệp nhất, phát triển và truyền giáo.
Nguồn : Trang Web Giáo
Phận Phan Thiết