
Lược
sử Giáo xứ Quy Ḥa
Nguồn : Website GP
Quy Nhơn - 20/06/2018
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ Qui Ḥa thuộc về phía Nam thành phố Qui-nhơn, phía Bắc
giáp giáo xứ Ghềnh Ráng, phía Nam giáp giáo xứ G̣ Duối, phía Đông
giáp biển, phía Tây là dăy núi, giáp giáo xứ Phú Thạnh. Trung tâm
sinh hoạt của giáo xứ là nhà thờ Qui Ḥa, khu vực II, phường Ghềnh
Ráng, thành phố Qui Nhơn.

II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ
1. Giai đoạn h́nh thành
Qui Ḥa là vùng đất cực Nam của thành phố Qui Nhơn. Trong địa bạ
thời vua Gia Long năm 1815, Qui Ḥa được ghi là khách hộ ấp[1] thuộc
xă Thời Tú, huyện Tuy Viễn, diện tích điền thổ 115 mẫu, 01 sào, 04
thước 3,2 tấc.
Tháng 04 năm 1904, cha Louis Célestin Vallet Ngân được đưa về làm
việc tại Qui Nhơn vừa với tư cách quản lư nhà chung, vừa chăm sóc
mục vụ cho các tín hữu. Dù nhiều công việc, cha Vallet đă gầy dựng
và phát triển giáo điểm tại một làng nhỏ quen gọi là Xóm Cát hay G̣
Cát thuộc thôn Qui Ḥa. Trong phúc tŕnh năm 1905 của Đức cha
Grangeon Mẫn gởi về Hội Thừa sai Paris, giáo điểm nầy được ghi là
“Qui-ḥa”. Năm 1905, Qui Nhơn được thành lập địa sở và cha Vallet
được bổ nhiệm làm cha sở đầu tiên. Lúc ấy giáo điểm Qui Ḥa trở
thành một họ đạo của địa sở Qui Nhơn.[2] Cha Vallet tiếp tục chăm
sóc mục vụ họ đạo này cho đến khi được bổ nhiệm làm cha sở Kim Châu
(1908).
Năm 1929, theo thống kê của Sở Y tế Qui Nhơn, tỉnh B́nh Định có
khoảng 1.200 bệnh nhân phong, nếu tính cả miền Trung có khoảng
12.000 bệnh nhân. Trước nhu cầu phục vụ cho bệnh nhân phong, Bác sĩ
Le Moine, giám đốc bệnh viện Qui Nhơn đưa ra đề án lập một nông trại
hay một làng phong nhằm qui tụ các bệnh nhân. Đề án được Đức cha
Damien Grangeon Mẫn, Đại diện Tông ṭa Giáo phận Qui Nhơn ủng hộ.
Bác sỹ Le Moine cùng với cha Paul Maheu Mỹ thuộc Hội Thừa sai Paris
thực hiện đề án tại Qui Ḥa với tên gọi trại phong Qui Ḥa. Bác sĩ
Le Moine phụ trách chuyên môn, c̣n cha Maheu làm Giám đốc đầu tiên
của trại phong. Bác sĩ Le Moine tường thuật việc cha Maheu đến Qui
Ḥa như sau: "Một buổi sáng đẹp trời, một chiếc thuyền cập băi Bến
Cát, chở theo một cái giường gỗ, một cái bàn, mấy cái ghế, một máy
dĩa phono, rất nhiều sách, một nhà tu hành gầy g̣ có bộ râu dài, cặp
mắt sáng quắc, đó là linh mục Paul Maheu, hiến dâng đời ḿnh cho
người cùi". [3]
Lúc đầu, với công sức của cha Maheu, trại phong được xây dựng
bằng mái tranh vách đất gồm: Nhà thờ, nhà xứ, nhà bệnh nhân và nhà
phát thuốc. Cơ sở đầu tiên này đă đón nhận 140 bệnh nhân. Lúc ban
đầu, ngoài cha Maheu và bác sĩ Le Moine, có các nữ tu Mến Thánh Giá
Qui Nhơn đến giúp tại trại phong này cho đến khi các nữ tu Ḍng Phan
sinh Thừa sai Đức Mẹ đến thay thế vào tháng 10 năm 1932.
Đức cha Tardieu nhận thấy nhu cầu cần những người có chuyên môn,
có kinh nghiệm và có khả năng kinh tế giúp cho trại phong. Đức cha
nghĩ đến các nữ tu Ḍng Phan sinh Thừa sai Đức Mẹ, một Ḍng đă có 9
trại phong lớn trên thế giới. Trước hết, nhờ Đức cha Colomban
Dreyer, Khâm sứ Ṭa Thánh tại Việt Nam liên lạc các chi nhánh Ḍng
tại Alsace, rồi tại Roma, và sau cùng tại Canada; nhưng mọi nơi đều
chung câu trả lời: không có nhân sự!
Cuối năm 1930, Đức cha Tardieu đích thân gỏ cửa Nhà Ḍng ở
Roma.[4] Ngày 18 tháng 12 năm sau, ngài nhận được phúc thư của Mẹ
Marie de Sainte Michelle, Bề trên Tổng quyền Ḍng Phan sinh Thừa sai
Đức Mẹ hứa sẽ gửi các nữ tu tới Qui Nhơn.
Sau một thời gian dốc tâm sức cho các bệnh nhân, cha Maheu ngă
bệnh và phải đưa về Pháp chữa trị. Cha qua đời ngày 27 tháng 02 năm
1931. Năm1930-1931 cha Pierre Alexandre Trí điều hành trại phong.
Năm1931-1943 cha Gabriel Marie Nicolas Cận tiếp nối cha Alexandre
Trí.
Các linh mục đến làm việc mục vụ tại trại Phong với cương vị
Tuyên úy, đồng thời cũng kiêm nhiệm luôn việc coi sóc các tín hữu
tại làng Qui Ḥa.
Ngày 24 tháng 10 năm 1932, năm nữ tu Phan sinh Thừa sai Đức Mẹ
thuộc tỉnh ḍng Thánh Tâm Paris đă đặt chân đến Qui Ḥa. Các nữ tu
đă chọn Thánh Phanxicô làm bổn mạng cho trại phong Qui Ḥa. Ngày 07
tháng 01 năm 1933, Đức cha Colomban Dreyer, Khâm sứ Ṭa Thánh, đến
thăm trại phong.
Trong trận băo lớn ngày 01 tháng 11 năm 1933, một cơn sóng thần
ập đến đă làm sập đổ tất cả nhà cửa trại phong và nhà cửa của dân
chúng trong làng. Bệnh nhân lúc này đă lên tới 350 người. Nhờ sự
giúp đỡ của các ân nhân xa gần, đặc biệt những nỗ lực của các nữ tu
Phan sinh ở đây, trại phong và ngôi làng được xây dựng lại. Khu Trại
phong được tái thiết kiên cố hơn. Nhà thờ mới được dời vào trung tâm
của trại phong, với chiều dài 36m, chiều rộng 16m, có tháp cao 22m.
Ngày 08 tháng 12 năm 1936, Đức cha Tardieu đến chủ lễ khánh thành.
Từ năm 1940-1943, cha Antôn Phùng Văn Linh phụ tá cha Nicolas tại
trại phong. Ngày 04 tháng 10 năm 1943, cha Louis Gustave Hutinet Nh́
đến Qui Ḥa thay thế cha Nicolas. Ngày 09 tháng 03 năm 1945, Nhật
đảo chính Pháp và chiếm đóng toàn cơi Đông Dương. Ngày 23 tháng 08
năm 1945, Việt Minh khởi nghĩa chiếm Qui Nhơn. Đến ngày 31 tháng 08
năm 1945, toàn tỉnh B́nh Định thuộc quyền của Việt Minh. Vào ngày 22
tháng 11 năm 1945, tất cả người ngoại quốc phải rời khỏi vùng thuộc
quyền của Việt Minh. Do đó, cha Hutinet và các nữ tu Phan sinh phải
rời khỏi Qui Ḥa.
Để tiếp tục điều hành trại phong cả mục vụ lẫn xă hội, vào những
năm 1945-1954, có các cha: Phaolô Huỳnh Biên (24.10.1945 –
01.4.1947), Giuse Vơ Ngọc Nhă (1947 – 1950), Phaolô Nguyễn xuân Bàn
(24.3.1953 – 14.11.1956). Thời gian này có các nữ tu Mến Thánh Giá
Qui Nhơn đến giúp trại phong.
Ngày 06 tháng 07 năm 1955, 5 nữ tu Phan sinh trở lại Qui Ḥa, gồm
2 nữ tu ngoại quốc : Ozithe và Charles Antoine và 3 nữ tu Việt Nam:
Anna Trần thị Mộ, Martha Nguyễn thị Nghi và Anna Phùng thị Khóa.
Nữ tu Charles Antoine, người Pháp, là một kiến trúc sư của Ḍng
đă cùng các Nữ tu Phan sinh góp nhiều sáng kiến để tổ chức đời sống
cho bệnh nhân: Xây nhà thương, pḥng cho bệnh nhân nặng; xây dựng
khoảng 250 căn nhà ở xinh xắn, lát gạch, lợp ngói, mỗi nhà một vẻ,
với vườn hoa trước thềm. Trại phong lúc này trở thành một khu phố
nhỏ, có đường ngang dọc ngăn nắp, nhà cửa khang trang. Trong trại
phong có chợ, có xích lô, xe đạp, có một trường học cấp một, hội
trường, sân bóng giải trí. Ngoài ra, c̣n có các cơ xưởng ngành nghề
như: Rèn, mộc, hàn x́, hồ, đúc gạch bông, mài granitô. Các ngành thủ
công như : Dệt vải, dệt chiếu, đan, may, thêu, vẽ. Ngoài ra, c̣n có
xưởng làm nước mắm, sản xuất dầu dừa, làm xà pḥng, vừa giúp thêm
thu nhập cho anh chị em bệnh nhân, vừa giúp họ phát huy khả năng,
gây niềm tự tin và vui sống trong xă hội.
Ngày 12 tháng 06 năm 1957 cha Camille Rohmer Triết đến thay cha
Phaolô Nguyễn Xuân Bàn. Ngoài việc tuyên úy cho trại Phong, cha
Rohmer tiếp cận và giới thiệu Chúa cho dân làng. Tại Xóm Cát, Băi
Xếp, Băi Rạng, Túy Phong, khoảng 90 người xin gia nhập Hội Thánh.
Một số hạng mục của nhà thờ cần được tu sửa cho phù hợp, chẳng
hạn tháp chuông được xây lại, hoàn tất năm 1968; cung thánh nhà thờ
lát gạch granitô thay v́ gạch bông, công tŕnh hoàn thành dịp Giáng
Sinh 1973. Bệnh nhân lúc bấy giờ khoảng trên dưới một ngàn người.
Năm 1967 cha Micae Ngô trung Lành đến nghỉ dưỡng tại Qui Ḥa. Măi
tới 27 tháng 03 năm 1972, ngài thay thế cha Rohmer, làm mục vụ cho
đến ngày 12 tháng 02 năm 1973. Từ ngày 12 tháng 02 năm 1973, cha
Pierre Jeanningros Vị được bổ nhiệm chăm sóc mục vụ tại Qui Ḥa cho
tới ngày 23 tháng 01 năm 1975.
Lúc mới thành lập, Qui Ḥa được cha sở Qui Nhơn chăm sóc mục vụ.
Từ khi trại phong được thành lập, Qui Ḥa là một sở biệt lập có linh
mục ở thuờng xuyên, và có tên trong các thống kê hằng năm của Giáo
phận như các giáo xứ khác.
Từ ngày thành lập cho đến cuối năm 1974, 2.475 bệnh nhân đă lănh
nhận Bí tích Rửa tội, đa số được lănh nhận Bí tích vào giờ hấp hối.
Ngày 27 tháng 03 năm 1975, cha Micae Lành lại tiếp tục đảm trách
việc mục vụ tại Qui Ḥa. Lúc này con số bệnh nhân điều trị tại bệnh
viện cũng như ở gia đ́nh đă lên tới 5.247 người.
Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước trực tiếp quản lư các cơ sở
giáo dục, y tế và từ thiện xă hội. Ngày 05 tháng 06 năm 1976, các nữ
tu Phan sinh trao bệnh viện phong cho Bộ Y tế điều hành. Các nữ tu
chỉ phục vụ như công nhân viên theo lănh vực chuyên môn. Trong lúc
bệnh viện phong được trao cho Bộ Y tế, nhà xứ Qui Ḥa tọa lạc trong
khuôn viên bệnh viện cũng được Bộ quản lư. Các cha đến làm việc mục
vụ chỉ sử dụng một ngôi nhà nhỏ kề bên nhà xứ.
Từ ngày 10 tháng 06 năm 1976 đến ngày 01 tháng 01 năm 1984, cha
Phêrô Nguyễn Hữu Sanh đảm nhận việc mục vụ tại Qui Ḥa. Cha ở đây
khoảng một năm. Sau đó, hoàn cảnh không cho phép, cha phải về ở Ṭa
Giám mục, chỉ đến làm việc mục vụ ban ngày. Trong những lúc cha đau
yếu, cha Anrê Hoàng Minh Tâm, chánh xứ Ḥa Ninh đến lo mục vụ cho
Qui Ḥa.
Từ ngày 14 tháng 01 năm 1984, cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm đang
ở tại Qui Đức, đảm trách mục vụ tại Qui-ḥa.
Ngày 05 tháng 06 năm 1988, cha Phaolô Lê Văn Nhơn, phó xứ Chính
ṭa Qui Nhơn, được bổ nhiệm làm mục vụ tại Qui Ḥa và Xuân Quang.
Trong suốt 11 năm trường (1988 đến 1999), cha đă hi sinh, vượt mọi
khó khăn mưa gió và đường xa cách trở, để đáp ứng mọi nhu cầu thiêng
liêng của tín hữu. Thời điểm này số tín hữu khoảng trên 800 người.
Ngày 03 tháng 10 năm 1999, cha Phaolô Trịnh Duy Ri được Đức cha
Phêrô Nguyễn Soạn bổ nhiệm làm mục vụ ở Qui Ḥa. Cha ở tại Qui Ḥa,
trực tiếp củng cố các ban ngành đoàn thể, nhờ đó mọi sinh hoạt ngày
càng sinh động hơn. Cha tái thiết bị hệ thống âm thanh trong nhà thờ,
giúp đem lại bầu khí sốt sắng và trang nghiêm. Năm 2002, Ḍng Phan
sinh Thừa sai Đức Mẹ mừng 70 năm hiện diện tại Qui Ḥa. Thánh lễ Tạ
ơn được cử hành long trọng và sốt sắng do Đức Giám mục Giáo phận chủ
tế và có đông linh mục đồng tế cùng giáo dân các giáo xứ chung quanh
đến tham dự.
2. Giáo xứ Qui Ḥa
Năm 2003 số giáo dân Qui Ḥa có 864 người, trong số đó một nửa là
bệnh nhân. Cha Phaolô Trịnh Duy Ri chuẩn bị du học ở Úc, Đức Giám
mục bổ nhiệm cha Gioakim Trần Minh Dũng làm chánh xứ Qui Ḥa. So với
những bổ nhiệm các linh mục trước đây với tư cách tuyên úy, đây là
bổ nhiệm một linh mục chính thức với tư cách cha sở giáo xứ. Ngày 23
tháng 02 năm 2003 thánh lễ bàn giao tại nhà thờ Qui Ḥa do Đức cha
Phêrô Nguyễn Soạn chủ tế.
Vài tháng sau khi nhận nhiệm sở, với sự cộng tác của Nhà Ḍng về
kinh phí, cha Dũng đă khởi công trùng tu nhà thờ, chỉnh trang khuôn
viên nhà thờ và hang đá. Công tŕnh đă hoàn tất tốt đẹp vào đầu
tháng 12 năm 2003. Giáo xứ c̣n thiếu cơ sở sinh hoạt, học giáo lư,
tập hát, hội họp, do đó giáo xứ phải mượn các pḥng khách của nhà
ḍng để giải quyết nhu cầu sinh hoạt.
Ngày 01 tháng 5 năm 2003, giáo xứ có một người con là thầy Phêrô
Vơ Hồng Sinh được Chúa chọn làm linh mục.
Ngày 20 tháng 06 năm 2005, cha Phanxicô Xaviê Lữ Minh Điểm được
bổ nhiệm làm chánh xứ Qui Hoà thay cha Gioakim Trần Minh Dũng được
bổ nhiệm làm chánh xứ Vườn Vông.
Ngày 08 tháng 01 năm 2009, Nhà nước giao lại nhà xứ Qui Ḥa cho
giáo xứ. Ngày 20 tháng 03 năm 2009, cha Điểm tu sửa nhà xứ sau một
thời gian dài nhà nước trưng dụng, đồng thời cha ổn định tường rào
cổng ngơ khuôn viên nhà xứ.
Trong chuyến viếng thăm Giáo phận Qui Nhơn lần thứ hai, sáng ngày
01 tháng 11 năm 2013, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện
Ṭa Thánh tại Việt Nam, được Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi hướng
dẫn đến thăm giáo xứ Qui Ḥa, cộng đoàn các nữ tu Phan sinh và các
bệnh nhân phong tại nhà an dưỡng của bệnh viện.
Ngày 15 tháng 04 năm 2014, Sở Tài nguyên & Môi trường B́nh Định
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khuôn viên nhà xứ Qui Ḥa. Cha
Điểm tiến hành xây dựng nhà giáo lư trong khuôn viên nầy.
Ngày 28 tháng 07 năm 2016, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám
mục Giáo phận Qui Nhơn, bổ nhiệm cha Phaolô Trương Đ́nh Tu làm cha
sở Qui Ḥa, thay thế cha Phanxicô Xaviê Lữ Minh Điểm được bổ nhiệm
làm cha sở Qui Đức.
Cuối năm 2017 giáo xứ Qui Ḥa có 315 gia đ́nh, 944 tín hữu, được
phân bố trong 3 giáo họ: giáo họ Phanxicô 384, giáo họ Giuse 315,
giáo họ Vô Nhiễm 245.
3. Các linh mục đă làm việc mục vụ tại Qui Ḥa
1. Cha Paul Maheu Mỹ (1929 – 1930).
2. Cha Pierre Alexandre Trí (1930 – 1931).
3. Cha Gabriel Marie J.B. Nicolas Cận (1931 – 1943).
4, Cha Antôn Phùng Văn Linh (1940 – 1943).
5. Cha Louis Gustave Hutinet Nh́ (1943 – 1945).
6. Cha Phaolô Huỳnh Biên (1945 – 1947; 1950 – 1953).
7. Cha Giuse Vơ Ngọc Nhă (1947 – 1950).
8. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1953 – 1956).
9. Cha Camille Rohmer Triết (1957 – 1976).
10. Cha Micae Ngô Trung Lành (1968; 1972–1973; 1975–1976).
11. Cha Pierre Jeanningros Vị (1973 – 1975).
12. Cha Phêrô Nguyễn Hữu Sanh (1976 – 1984).
13. Cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm (1984 - 1988).
14. Cha Phaolô Lê Văn Nhơn (1988 - 1999).
15. Cha Phaolô Trịnh Duy Ri (1999 - 2003).
16. Cha Gioakim Trần Minh Dũng, cha sở (2003 – 2005).
17. Cha Phanxicô Xaviê Lữ Minh Điểm, cha sở (2005 - 2016).
18. Cha Phaolô Trương Đ́nh Tu, cha sở (2016 -...).
4. Linh mục, tu sĩ xuất thân từ giáo xứ
1. Cha Phêrô Vơ Hồng Sinh.
2. Tu huynh Phanxicô Nguyễn Quốc Vương, Ḍng Ngôi Lời.
3. Nữ tu Têrêxa Lê Thị Như Ư, Ḍng Tận hiến Đức Mẹ Lên Trời
[1] Làng do người nơi khác đến lập.
[2] Xem AMEP, Notice biographique de Vallet; Rapport annuel de
Cochinchine Orientale 1905.
[3]AMEP, Notice biographique, Maheu Paul, numéro 2170, pays
Vietnam.
[4] 12 Via Giusti, Roma.
Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận
Nguồn : Website GP
Quy Nhơn - 20/06/2018
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|