
Lược
sử Giáo xứ Trà Kê
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn (19/7/2018)
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Phần đất giáo xứ Trà Kê bao gồm các thôn xă của huyện Sơn Ḥa,
tỉnh Phú Yên: Xă Phước Tân, xă Sơn Hội, xă Cà Lúi, xă Sơn Định, thôn
Tân Hiên xă Sơn Phước.
Trung tâm sinh hoạt của giáo xứ là nhà thờ Trà Kê, thôn Tân Hội,
xă Sơn Hội, huyện Sơn Ḥa, tỉnh Phú Yên, trên trục Quốc lộ 19C.
Phần đất giáo xứ Trà Kê thuộc vùng núi cao của Phú Yên, ngày xưa
đường đi hiểm trở, các cụm dân cư thường cách xa nhau. Đây là vùng
đất đỏ bazan, khí hậu mát mẻ, do đó c̣n được gọi là cao nguyên Trà
Kê. Ông A. Laborde, Quản lư dịch vụ dân sự Đông Dương, đề cập đến
Trà Kê khi viết về Phú Yên: "Ở đây không có mưa phùn gió lạnh ở Bắc
Kỳ, mưa dầm ẩm ướt ở Huế, khí hậu nặng nề ở Nam Kỳ… có thể lập ở Trà
Kê trạm nghỉ mát, dù đường đi đến đó c̣n khó khăn".[1]

Hiện nay đường về Trà Kê không khó khăn như xưa. Quốc lộ 19C,
quốc lộ 25 và ĐT 643 đều dẫn về Trà Kê.[2] Khu vực ngă ba Trà Kê là
điểm giao thương của ba xă miền núi: Sơn Hội, Cà Lúi và Phước Tân
của huyện Sơn Ḥa. Do đó người dân c̣n gọi chợ Trà Kê là chợ ba xă.
II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ
1. Nguồn gốc
Trong báo cáo của Đức cha Stêphanô Thể gởi về Hội Thừa sai Paris
năm 1850, chưa thấy có tên một giáo điểm hoặc một nhà thờ nào thuộc
vùng đất giáo xứ Trà Kê ngày nay. Trong báo cáo năm 1897 của Đức cha
Van Calmelbeke Hân có ghi: “Nhà thờ Trà Kê được hoàn thành. Nhà thờ
nầy được xây lại trên nền nhà nguyện cũ đă có trước năm 1861”.[3]
Như thế Trà Kê là một giáo điểm được các thừa sai Paris thành lập
sau năm 1850 và trước năm 1861. Năm 1867, vừa sau khi thụ phong linh
mục, cha Tađêô Tín quê Phú Thượng được bổ nhiệm phụ trách Trà Kê,
Cây Da và Đồng Tre cho đến khi cha François Chatelet Thuông đến thay
thế .[4]
Cha Chatelet sinh ngày 20 tháng 04 nawm 1855 tại Pháp. Thụ phong
linh mục ngày 26 tháng 09 năm 1880, tháng 10 năm 1880 cha lên đường
đến Việt Nam, cha được bổ nhiệm đến Trà Kê. Khi sự bách hại của Văn
Thân năm 1885 làm cho vùng Trà Kê không được an toàn, cha Chatelet
đưa giáo dân tập trung về họ đạo Cây Da, cách Trà Kê khoảng 8 km về
hướng Đông-Bắc, một vị trí tương đối hiểm trở, có suối bao bọc xung
quanh. Cha lập pḥng tuyến bằng rào tre nhằm bảo vệ nhóm tín hữu Trà
Kê - Đồng Tre và các vùng ở miền xuôi tập trung về.
Ngày 26 tháng 08 năm 1885 Văn Thân đă phá được pḥng tuyến, xông
vào nhà thờ Cây Da sát hại cha Chatelet và một số tín hữu. Thầy Anrê
Cậy đang giúp xứ Cây Da, bị đâm vào cổ, thầy ngă nằm chung với các
tín hữu đă bị sát hại, Văn Thân tưởng thầy đă chết, sau đó thầy được
cứu sống và thụ phong linh mục. Ḷng đất Cây Da đă được vinh hạnh
đón nhận thân xác cha Chatelet và một số tín hữu cùng dâng hy lễ máu
đào trong ngày lịch sử ấy. Cha Chatelet đă được an táng ngay tại nền
nhà thờ Cây Da. Năm 1991, thầy Giuse Lê Thu Thâu và một số giáo dân
Trà Kê cải táng, đưa về nhà An B́nh giáo xứ Tuy Hoà. Năm 2012, cha
được đưa về an nghỉ bên hang đá Đức Mẹ Trà Kê. Bên cạnh mộ phần của
cha hiện nay có cây da, nguyên là một nhánh nhỏ của gốc cây da cổ
thụ đă bị đốt cháy từ nền nhà thờ Cây Da được đưa về nhà thờ Trà Kê.
Khi được đưa về Trà Kê, tưởng chừng gốc da cổ thụ thành gốc củi khô.
Sau một thời gian dài, qua một mùa mưa, từ gốc da cổ thụ ấy nẩy ra
một mầm da mới, nay chim trời đă đến làm tổ trên cành.
Sau khi cha Chatelet bị sát hại, giáo dân Cây Da vẫn cố gắng
pḥng thủ, cầm cự gần 2 tháng trước sự bao vây và tấn công nhiều đợt
của Văn Thân. Ngày 29 tháng 8, giáo dân phản công trước ṿng vây
hùng hậu của Văn Thân, và thu được nhiều binh khí, trong đó có thanh
gươm với cán bằng ngà voi. Được sự ủy nhiệm của Đức cha Van
Camelbeke Hân, trưa ngày 03 tháng 10 năm 1885, cha Joseph Auger Đoàn
và cha Phêrô Huề cùng 283 giáo dân B́nh Định có trang bị 70 súng
trường và 30 cây giáo cùng với lương thực, lên chiến thuyền của ông
Le Gorrec từ Qui Nhơn vào cập bến Vũng Lắm. Từ Vũng Lắm, đoàn đi bộ
đến Cây Da, sáng ngày 05 tháng 10 năm 1885 giáo dân Cây Da được giải
cứu. Để được an toàn hơn, cha Auger và cha Huề dẫn đoàn tín hữu c̣n
sống sót về Qui Nhơn. Thanh gươm nói trên được mang tặng cho ông Le
Gorrec, chỉ huy trưởng chiến thuyền Chasseur, như một món quà của
ḷng biết ơn.[5]
Sau thời gian bị bách hại, t́nh h́nh được yên ổn, đầu năm 1887
Đức cha Van Calmelbeke Hân bổ nhiệm cha Joseph Guitton Thông cùng 2
cha phụ tá là cha Gioakim Đạt và cha Phêrô Huề đến Phú Yên. Cha
Guitton phụ trách phía Tây Phú Yên, ở tại Cây Da. Cha Gioakim Đạt và
cha Phêrô Huề phụ trách phía Nam Phú Yên, ở tại Hoa Vông.
Tháng 09 năm 1888 Đức cha Van Camelbeke chia Phú Yên làm 2 vùng:
Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên, đặt cư sở tại Hoa Vông, cha
Gioakim Đạt làm phụ tá. Cha Lacassagne phụ trách vùng phía Bắc Phú
Yên đặt cư sở tại Mằng Lăng, có cha Phêrô Huề làm phụ tá ở tại Cây
Da. Lúc bấy giờ vùng Trà Kê, Cây Da, Đồng Tre thuộc vùng Bắc Phú Yên,
do cha sở Mằng Lăng đảm trách mục vụ.
Tháng 02 năm 1893, cha Giuse Trần Nhi được bổ nhiệm về Cây Da,
cha Huề đi truyền giáo Củng Sơn. Hơn 4 tháng sau, cha Antôn Bản từ
Ninh Hoà được bổ nhiệm về Cây Da, cha Nhi hoạt động truyền giáo ở
Củng Sơn, cha Huề về Phú Điền, quê hương của ngài. Năm 1895 cha
Wendling Linh được bổ nhiệm phụ trách mục vụ vùng Trà Kê - Cây Da,
cha Nhi làm phụ tá hoạt động truyền giáo ở Tịnh Sơn. Cha Antôn Bản
vẫn là phụ tá cho cha Lacassagne về ở tại G̣ Duối.
Năm 1896, vùng truyền giáo Phú Yên được chia thành 3 địa sở: Mằng
Lăng, Hoa Vông và miền núi. Cha Lacassagne ở Mằng Lăng, cha Dubulle
Phương ở Hoa Vông và cha Wendling đảm nhiệm vùng miền núi Phú Yên, ở
tại Trà Kê. Năm 1897, cha Wendling hoàn thành ngôi nhà thờ mới tại
Trà Kê.
Năm 1901 cha Wendling được bổ nhiệm về Mằng Lăng, cha Émile
Perreaux Qui đến ở tại Cây Da trong một thời gian ngắn. Cùng năm
1901 cha Porcher Kính được bổ nhiệm về Cây Da. Ngày 14 tháng 07 năm
1901 cha Antôn Cẩm về Tịnh Sơn thay thế cha Nhi. Theo báo cáo năm
1903 của Đức cha Grangeon Mẫn, toàn vùng Trà Kê có 2.055 tín hữu rải
rác trong 20 cộng đoàn rất cách xa nhau.
Tháng 08 năm 1905 cha Phêrô Giảng về Cây Da phụ tá cho cha
Porcher, sau đó cha Porcher về kiến thiết Đồng Tre, thường xuyên ở
tại Đồng Tre cho đến năm 1918, cha Porcher được bổ nhiệm làm cha sở
Hoa Vông.
Trong chuyến viếng thăm mục vụ Phú Yên, vào ngày 18 tháng 04 năm
1907 Đức cha Grangeon Mẫn đến Trà Kê và ngày 20 làm phép nhà thờ Trà
Kê vừa mới được cha Porcher tu sửa.
Năm 1910 cha Phêrô Giảng đổi đi Bàu Gốc, cha Giacôbê Lê Kim Dung
được bổ nhiệm làm phụ tá cho cha Porcher. Cha Dung ở tại Trà Kê. Trà
Kê – Cây Da lúc nầy là họ đạo thuộc Đồng Tre. Trong thống kê năm
1910-1911 vùng Phú Yên có 4 địa sở:[6]
- Mằng Lăng : 19 giáo điểm với 1.790 giáo dân do cha Wendling phụ
trách.
- Đồng Tre : 10 giáo điểm với 1.093 giáo dân do cha Porcher phụ
trách.
- Hoa Vông : 13 giáo điểm với 1.113 giáo dân do cha Lalanne phụ
trách.
- Tịnh Sơn : 4 giáo điểm với 305 giáo dân do cha Phaolô Trần Huấn
phụ trách.
2. Thành lập địa sở Trà Kê
Cuối năm 1919, Trà Kê được tách khỏi Đồng Tre để thành lập địa sở.
Cha Giacôbê Lê Kim Dung được bổ nhiệm làm cha sở. Địa sở Trà Kê đă
hiện diện trong bảng thống kê hiện t́nh Giáo phận năm 1919-1920,
phần tỉnh Phú Yên:[7]
- Mằng Lăng 1.715 giáo dân
- Đồng Tre 410 giáo dân
- Trà Kê 555 giáo dân
- Tịnh Sơn 630 giáo dân
- Hoa Vông 570 giáo dân.
Tháng 06 năm 1928, cha Giacôbê Dung từ Trà Kê về làm cha sở Mằng
Lăng. Từ đó, trong khoảng thời gian 15 năm (1928-1943), Trà Kê - Cây
Da do cha sở Tịnh Sơn kiêm nhiệm:
- Cha Antôn Phạm Cảnh Chẩm (1928-1931)
- Cha Tôma Triều (1931-1935)
- Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (7/1935-8/1935)
- Cha Anrê Nguyễn Văn Tường (1936-1940)
- Cha Phêrô Lê Vĩnh Phước (1940-1943)
Tháng 8 năm 1943, cha Augustinô Nguyễn Cao Th́n được bổ nhiệm làm
cha sở Trà Kê, nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Tháng 04 năm 1944,
cha Antôn Dẫn được bổ nhiệm làm cha sở Trà Kê, thay cha Augustinô
Th́n được bổ nhiệm làm cha sở Lạc Điền.[8] Năm 1947, cha Antôn Dẫn
bị bắn chết và thiêu đốt trên đống gỗ được cha chuẩn bị để làm nhà
thờ Trà Kê.
3. Giai đoạn sáp nhập vào giáo xứ Tịnh
Sơn (1975-2009)
Trà Kê là vùng núi cao hiểm trở, từ khi chiến tranh Việt - Pháp
xảy ra, nhà thờ bị đốt cháy, cha sở bị bắn chết, giáo dân di cư, chỉ
c̣n lại số ít nên mọi sinh hoạt tôn giáo đều tập trung về Tịnh Sơn.
Trà Kê – Cây Da lúc bấy giờ trở thành họ đạo của Tịnh Sơn. Hầu hết
thời gian từ năm 1946 đến năm 1975, Trà Kê – Cây Da nằm trong vùng
chiến tranh, dân chúng từ từ di tản đi các nơi. Xóm làng, nhà thờ
dần dần trở thành hoang phế.
Sau khi chiến tranh kết thúc, giáo dân dần dần hồi cư. Cha Phêrô
Tuần Nguyễn Cao Hiên từ nhà thờ Củng Sơn t́m mọi cách vượt suối băng
rừng đi đến Trà Kê thăm viếng, qui tụ, an ủi giáo dân. Lúc ban đầu
cha thường qui tụ dâng lễ, giải tội tại nhà ông Sáu Rỡ. Từ nhà thờ
Củng Sơn đến Trà Kê 21 km, phương tiện tốt nhất lúc bấy giờ là đi bộ,
chiếc xe đạp cũ kỹ của cha chủ yếu dắt theo để thồ chút đồ lễ và đồ
dùng thô sơ, thậm chí có khi phải tháo bánh xe, chuyển từng món qua
suối, ráp lại, lên đường. Cha đă có mặt với giáo dân trên từng cây
số, trên từng địa h́nh. Ông Giacôbê Nguyễn Trường Côn (Dư Hứa), một
giáo dân lớn tuổi ở Trà Kê từng bộc bạch: "Không có cha Hiên, chúng
con không c̣n đức tin".
Năm 1989 nền nhà thờ Trà kê dần dần được dọn dẹp cỏ cây sau hơn
40 năm hoang phế và một nhà thờ tạm dài 9m rộng 7m, cột kèo tre,
vách đất thô, cửa ván g̣n, nền gạch cù thô nhám gập ghềnh, không
chút ximăng, mái tôn hột mè cũ kĩ rách nát xen lẫn vài tấm tranh
săng. Nhà thờ được thành h́nh trong gian khó nhưng là niềm hoan hỉ
của cha sở cũng như đoàn chiên. Những buổi kinh hôm thường nhật và
thánh lễ hằng năm, rồi hằng tháng, rồi hằng tuần dần dần được cử
hành tại nhà thờ nầy sau hơn 40 năm vắng lặng. Từ năm 1992, cha
Giuse Lê Thu Thâu, phó xứ Tịnh Sơn, ở tại Sơn Nguyên trợ giúp cha
Hiên lo việc mục vụ tại Trà Kê.
Đă đến lúc thuận lợi, năm 2002, cha Phêrô Nguyễn Cấp, cha sở Tịnh
Sơn, khởi công xây dựng nhà thờ Trà Kê bằng những vật liệu rắn chắc.
Ngày 02 tháng 04 năm 2003, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn đă chủ sự thánh
lễ tạ ơn khánh thành nhà thờ.
Năm 2003, cha Giuse Lê Thu Thâu được bổ nhiệm làm cha sở Tịnh Sơn
thay cha Cấp. Cha Thâu và giáo dân Trà Kê đă từng chung sức chung
ḷng với nhau xây dựng giáo họ Trà Kê từ khi cha c̣n là một đại
chủng sinh ở giáo họ Sơn Nguyên. Đèo Trà Kê khoảng 3 km nhỏ hẹp với
19 góc cua đă quá quen thuộc với cha dù trời mưa trơn trượt hay nắng
nóng hanh khô. Hằng tuần cha đều có mặt tại cộng đoàn Trà Kê.
4. Tái lập giáo xứ Trà Kê
Ngày 27 tháng 05 năm 2009, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám mục
Giáo phận Qui Nhơn, quyết định tái lập giáo xứ Trà Kê, đồng thời bổ
nhiệm cha Phanxicô Phạm Đ́nh Triều, nguyên cha phó Tịnh Sơn, làm cha
sở Trà Kê.
Để đáp ứng cho nhu cầu của một giáo xứ, cha Phanxicô chịu khó gơ
cửa các ân nhân khắp nơi để xây dựng cho giáo xứ:
- Nhà giáo lư: Khởi công ngày 01 tháng 05 năm 2011, khánh thành
ngày 04 tháng 10 năm 2012 cùng với hang đá Đức Mẹ.
Đài Thánh Giuse: Khánh thành ngày 20 tháng 03 năm 2013.
- Nhà thờ, nhà xứ: Khởi công ngày 04 tháng 10 năm 2013, khánh
thành ngày 13 tháng 07 năm 2016.
- Nghĩa địa: Cách nhà thờ khoảng 300m. Diện tích đất khoảng
10.000m². Khởi công ngày 01 tháng 06 năm 2017.
Cuối năm 2017 giáo xứ Trà Kê có 222 gia đ́nh, 743 tín hữu, được
phân bố trong 4 giáo họ: Trà Kê 703, Cà Lúi 16, Sơn Định 15, Tân
Hiên 9.
5. Các cha sở
1. Cha Giacôbê Lê Kim Dung (1919-1928).
Các cha sở Tịnh Sơn kiêm nhiệm:
. Cha Antôn Phạm Cảnh Chẩm (1928-1931).
. Cha Tôma Triều (1931-1935).
. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (7/1935-8/1935).
. Cha Anrê Nguyễn Văn Tường (1936-1940).
. Cha Phêrô Lê Vĩnh Phước (1940-1943).
2. Cha Augustinô Nguyễn Cao Th́n (1943-1944).
3. Cha Antôn Dẫn (1944-1947).
4. Cha Phanxicô Phạm Đ́nh Triều (2009-...).
[1] Bulletin des Amis de Vieux Hue, số 29, Novembre - Décembre
1929, tr. 201.
[2] Quốc lộ 19C đă mừng công hoàn thành vào năm 2013; - ĐT 643
khánh thành năm 2014.
[3] AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1897 - Mgr.
d’Hiérocésarée.
[4] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 143, 10 Septembre 1918,
tr.125.
[5] Xem "Giải cứu 900 giáo dân tỉnh Phú Yên năm 1885" trong Khi
xác thân là của lễ, Ṭa Giám mục Qui Nhơn 2017, tr. 122-140.
[6] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 79, 8 Octobre 1911, tr.
103.
[7] Xem Mémorial Mission de Quinhon, Nouvelle série, No. 9, 8
Décembre 1920, tr. 66.
[8] Xem Mémorial Mission de Quinhon, Avril 1944, tr. 1.
Tác giả bài viết: BBT lich sử giáo phận
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn
Xem thêm : [
Lược sử Giáo xứ Trà Kê - Nguồn : Trang Web Giáo hạt Phú Yên ]
|