Lược
sử Giáo xứ G̣ Thị
I . VỊ TRÍ ĐỊA LƯ:
Theo bản đồ hành chánh hiện nay, giáo xứ G̣ Thị bao gồm xă Phước
Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh B́nh Định. Trung tâm sinh hoạt của giáo
xứ là nhà thờ G̣ Thị, thôn Xuân Phương, xă Phước Sơn. Cách thành phố
Qui Nhơn khoảng 22 km về phía Bắc. Đông giáp biển Đông (Đầm Thị Nại),
Tây giáp giáo xứ Lục Lễ, Nam giáp giáo xứ Tân Dinh, Bắc giáp giáo xứ
Nam B́nh.
II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ:
Tháng 7 năm 1618, cha Buzomi, cha De Pina và cha Borri là các
thừa sai Ḍng Tên đă đặt chân đến Nước Mặn và lập cư sở truyền giáo
ở đó. Lúc bấy giờ, Nước Mặn là một thương cảng trù phú nằm trên bờ
phía Tây Bắc đầm Thị Nại, cách nhà thờ G̣ Thị hiện nay khoảng 6 cây
số về phía Tây Bắc, nay thuộc thôn An Hoà, xă Phước Quang, thuộc
giáo xứ Nam B́nh. Qua thời gian, phù sa từ ḍng sông Côn đổ về đầm
Thị Nại đă dần dần làm xuất hiện những g̣ đất mới như G̣ Vạn, G̣ Bồi,
G̣ Thị, G̣ Dài... và dân chúng cũng dần dần đến sinh sống nơi những
g̣ đất mới ấy, trong đó có các giáo hữu. Cụ thể, theo báo cáo năm
1747 do cha Guillaume Rivoal ghi phần truyền giáo của Hội Thừa Sai
Paris th́ G̣ Thị đă có 60 giáo hữu, Kỳ Sơn 80. [1]
Đến năm 1850, theo báo cáo của Thánh Giám Mục Stêphanô Cuênot Thể,
vùng đất thuộc giáo xứ G̣ Thị ngày nay có: G̣ Thị 750 tín hữu, G̣
Dài 442. Đây là 02 trong số 17 giáo điểm lúc bấy giờ thuộc hạt Tam
Thuộc. [2]
Từ năm 1839, G̣ Thị đă có vinh dự được Đức cha Stêphanô Cuênot
Thể chọn làm nơi đặt Toà Giám Mục và ngài đă thường xuyên ở đó cho
đến năm 1861. Sở dĩ có sự chọn lựa này là v́ vùng đất G̣ Thị xa
triều đ́nh Huế, các quan sở tại thực hiện lệnh cấm đạo có phần nhẹ
nhàng hơn, giáo hữu đă đông lại tận tuỵ và trung thành. Thêm vào đó,
vùng này địa h́nh thấp, ít đường đi, gần đầm Thị Nại và không xa cửa
Kẻ Thử bao nhiêu, nhờ đó Đức cha có thể trốn lánh dễ dàng khi gặp
nguy hiểm.
Toà Giám Mục, nơi Đức cha cư trú và làm việc chỉ là một ngôi nhà
tranh như bao ngôi nhà khác trong xóm, chỉ khác là phía sau có cửa
và đường trốn thoát, để khi có hiệu báo, Đức cha cứ theo đó lánh nạn.
Có những lúc do hoàn cảnh quá khó khăn, giáo hữu G̣ Thị phải đưa Đức
cha tạm lánh ở Gia Hựu, Mương Lở, Tân Hội, Xóm Nam. Có khi giữa đêm
khuya phải đưa Đức cha trốn vào tu viện Mến Thánh Giá, hay ra đồng
ruộng hoặc vào các đám lau sậy sát ven đầm.
Đức cha không ra mặt vào ban ngày. Cứ đêm đến các chức sở đưa
ngài đi nơi này đến nơi nọ để gặp gỡ và dạy dỗ giáo hữu. Chính tại
G̣ Thị, ngày 01/8/1841, Đức cha Stêphanô Cuênot Thể truyền chức Giám
mục cho cha Dominique Lefèvbre làm Giám mục phó có quyền kế vị. Sau
sự kiện quan trọng đó, đầu tháng 10/1841 ngài triệu tập công nghị G̣
Thị, để ban cho các linh mục một hiến chương đời sống cá nhân và
những chỉ dẫn mục vụ quí giá.
Cũng tại G̣ Thị, vào ngày 04/10/1846 Đức cha Cuênot truyền chức
Giám mục cho cha F. Pellerin làm Giám mục phó có quyền kế vị. Lúc
nầy Đức cha Dominique Lefèvbre đă làm Giám mục Tây Đàng Trong.
Phải nh́n nhận rằng sở dĩ Đức cha có thể sống an toàn và làm việc
hiệu quả giữa cơn cấm cách, phần lớn nhờ sự giúp đỡ tận t́nh của
giáo hữu G̣ Thị, đặc biệt là ông trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông. Ông
trùm cộng tác với Đức cha lo việc giáo phận cho đến năm 1854 th́ bị
lưu đày vào Định Tường và chết ở đó ngày 15/7/1855. [3]
Sáu năm sau cái chết của ông Trùm Anrê, lệnh phân sáp của vua Tự
Đức được thực hiện triệt để, các giáo hữu G̣ Thị bị phân tán trong
các làng ngoại giáo và do đó Đức cha phải rời G̣ Thị đến ẩn lánh tại
nhà bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lưu ở Vĩnh Thạnh (G̣ Bồi), v́ bà này
được xă tổng cho hoăn lệnh phân sáp. Sau mười ngày ẩn nấp, ngài đă
bị bắt ngày 24 tháng 10 năm 1861, bị giải về nhà giam B́nh Định và
cuối cùng đă chết rũ tù ngày 14 tháng 11 năm 1861.
Đức cha Stêphanô Cuênot Thể và ông trùm Anrê Nguyễn Kim Thông đă
được Đức Giáo Hoàng Leô XIII nhận vào bậc Đáng Kính ngày 13 tháng 2
năm 1899. Đức Giáo Hoàng Piô X tôn lên hàng chân phước ngày 2 tháng
5 năm 1909 và đă được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong
hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Tại G̣ Thị, trong những cơn bách hại dưới triều Tự Đức, nhiều nữ
tu, chức sở và giáo hữu cũng chịu nhiều khốn khổ: kẻ bị tù, người bị
đày, kẻ khác bị giết, c̣n phần đông bị phân sáp vào các làng ngoại
giáo. Đặc biệt cha Giuse Thủ (con của Trùm Cả Anrê), cha Phaolô Châu
(cháu họ của Trùm Cả Anrê) và ông từ Phêrô Me, cả 3 người quê ở G̣
Thị đă được chính thức nh́n nhận là chết v́ đạo vào năm 1862 và từ
năm 1909, hồ sơ xin phong thánh cho các vị đang được Ṭa Thánh cứu
xét.
Sau khi Đức cha Stêphanô Cuênot Thể qua đời, G̣ Thị không c̣n là
nơi cư trú thường xuyên của các Giám mục nữa. Đức cha Eugène
Charbonnier Trí, người kế vị Đức cha Stêphanô Cuênot Thể, đă từ Pháp
đến Sài G̣n và từ Sài G̣n cập bến Kim Bồng, Tam Quan, B́nh Định vào
ngày 14 tháng 7 năm 1865 và đến ở tại Gia Hựu.
Sau hoà ước Nhâm Tuất năm 1862, đạo thánh Chúa được tự do, giáo
hữu G̣ Thị được trở về quê quán làm ăn, gần 200 người đă chết hoặc
mất tích trong thời kỳ cấm đạo. Từ năm 1878 đến năm 1884, dưới thời
cha Panis Ngăi làm cha sở, giáo xứ G̣ Thị có thêm hai giáo họ mới là
Phụng Sơn và An Hoà. Lúc bấy giờ tổng số giáo hữu lên đến gần 4.000
người trong 21 giáo điểm.[4] Nhưng chỉ ít lâu sau, giáo xứ G̣ Thị
cũng như toàn giáo phận lại phải trải qua một cơn bách hại nặng nề
khủng khiếp trong biến cố Văn Thân năm 1885. Quả thế, giữa tháng 7
năm 1885, với chủ trương “B́nh Tây Sát Tả”, phong trào Văn Thân khởi
sự giết chóc và đốt phá các làng Công giáo. Trong số gần 2.000 giáo
hữu G̣ Thị, có nhiều người đă trốn xuống Qui Nhơn từ vài ngày trước
theo lệnh Đức cha F.X. Van Camelbeke Hân, nhưng có hơn 200 người
không ngờ trước tai hoạ hoặc v́ ở xa không biết tin nên không đi,
hầu hết đều bị tàn sát. Phải đợi đến tháng 7 năm 1887, cuộc bách hại
đạo được chấm dứt. Các giáo hữu trở về quê sinh sống. Giáo xứ G̣ Thị
lúc này chỉ c̣n 1.500 người, một số đă nhập tịch giáo phận Sài G̣n,
một số khác định cư tại nhiều họ đạo thuộc tỉnh Phan Thiết.
Nhưng giáo xứ G̣ Thị lại phục hồi nhanh chóng. Những họ đạo cũ
như G̣ Thị, G̣ Dài, Xuân Phong, Mỹ Cang, Vĩnh Thạnh đều tăng số giáo
hữu hơn năm 1885. V́ số giáo hữu tăng, nên vào năm 1890 Xóm Nam cùng
với Xóm Bắc, Vĩnh An, Vĩnh Minh, Vĩnh Thạnh được tách ra làm thành
giáo xứ Xóm Nam, tức Nam B́nh ngày nay.
Bù vào đó, từ năm 1890 đến năm 1905, giáo xứ G̣ Thị lại có thêm
nhiều giáo họ mới, như Lục Trung, Lục Lễ, Vinh Quang, Phước Thiện,
Tân Giảng, Bảo An, Tân Thành, Lạc Điền và An Lợi với tổng số giáo
hữu là 2989 người.[5] Tuy nhiên theo thống kê năm 1909 –1910 th́ G̣
Thị có 1.657 tín hữu trong 06 giáo họ.[6] Có lẽ thời điểm nầy một số
giáo họ được cắt chia cho Nam B́nh, theo bản thống kê nầy Nam B́nh
có 14 giáo họ. Thống kê năm 1917-1918 G̣ Thị có 2.407 tín hữu trong
11 giáo họ ; Nam B́nh có1.440 tín hữu trong 09 giáo họ. Từ năm 1905
đến năm 1945, nhiều nhà thờ và cơ sở tôn giáo đă lần lượt được xây
mới hoặc xây lại kiên cố như để khẳng định t́nh thương quan pḥng
bất biến của Thiên Chúa với sự tồn tại vững chắc của Giáo Hội trên
vùng đất vừa mới trải qua nhiều thử thách đức tin này: Nhà thờ G̣
Thị (1922), trước đó vào năm 1864 - 1866 cha Bossard đă xây dựng nhà
thờ G̣ Thị, [7] năm 1897 lúc cha Vivier làm cha sở có thánh lễ trọng
thể làm phép nhà thờ mới G̣ Thị, nhà thờ trung tâm của cả vùng do
cha xây dựng; [8] nhà thờ Phước Thiện (1940); nhà thờ G̣ Dài (1941);
cơ sở nhà chung; nhà mồ côi. Nhà mồ côi G̣ Thị là một cơ sở từ thiện
lâu đời có thể được xây dựng sau năm 1871 nhằm đáp ứng nhu cầu cho
nhiều trẻ mồ côi trong vùng. [9] Cha Salomez đă làm giám đốc cơ sở
nầy từ 1904 – 1906.
Song song với việc phát triển giáo xứ, các vị chủ chăn c̣n đặc
biệt quan tâm đến đời sống tu tŕ và công tác giáo dục. Từ trước,
tại G̣ Thị đă có một tu viện Mến Thánh Giá. Nhưng đến 1924, Đức cha
Grangeon Mẫn đă canh tân Ḍng Mến Thánh Giá theo giáo luật 1917 và
chọn tu viện này làm nhà mẹ và tập viện cho Ḍng Mến Thánh Giá canh
tân trong toàn giáo phận. Việc huấn luyện đệ tử và tập sinh ban đầu
được giao cho các nữ tu Ḍng Thánh Phaolô thành Chartres, nhưng bề
trên chính thức của tập viện là cha Solvignon Lành, đang là cha xứ
G̣ Thị. Ngài đă cho xây dựng những cơ sở đầu tiên để thu nhận đệ tử
và tập sinh. Tu viện mới đă được làm phép trọng thể ngày 21 tháng 3
năm 1924.
Ngoài ra, ngày 13/5/1924 Đức cha Grangeon Mẫn đă ra thư chung
buộc mỗi giáo xứ phải mở trường sơ học. Trong giáo xứ G̣ Thị, cha
Solvignon Lành đă thiết lập 9 trường: G̣ Dài, Phước Thiện, Mỹ Cang,
Lục Lễ, Tân Thành, Lạc Điền, Xóm Chuối, riêng tại G̣ Thị có một
trường nam và một trường nữ.
Ngày 10/7/1929, do sự bất cẩn của chú giúp, một cơn hoả hoạn đă
thiêu rụi toàn bộ nhà xứ. Tuy nhiên, nhờ tài tháo vát của cha xứ,
một ngôi nhà xứ hai tầng đă được xây dựng khang trang vững chắc phía
sau nhà thờ và vẫn c̣n tồn tại cho đến ngày nay. Vào năm 1933 một
trận băo khủng khiếp đă làm sụp đổ nhà thờ G̣ Thị, Tập viện, trường
nam và hầu hết các nhà thờ trong giáo xứ. Cha Solvignon Lành đă phải
xây dựng lại tất cả. Năm 1939, thời Đức cha Tardieu Phú, các họ đạo
cực Bắc là Quán Ngỗng, Kẻ Thử, Phương Phi, Xóm Chuối được tách khỏi
G̣ Thị để tái lập lại giáo xứ Phương Phi, tiền thân giáo xứ Xóm
Chuối (Ḥa B́nh).
Năm 1944, số giáo hữu giáo xứ G̣ Thị lên đến 3.595 người. V́ thế
4 họ đạo phía bắc là Tân Thành, Bảo An, An Lợi, Lạc Điền cùng với họ
Vĩnh Thạnh của Nam B́nh được tách ra làm thành giáo xứ Lạc Điền.
Từ năm 1945 đến năm 1952, cha Tôma Nguyễn Văn Tới đă cho nới rộng
cung thánh nhà thờ G̣ Thị, đóng bàn ghế, xây hang đá Đức Mẹ Lộ Đức,
đài chân phước Anrê Nguyễn Kim Thông. Đồng thời ngài cũng xây nhà
thờ Lục Lễ.
Từ năm 1956, dưới thời cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn, công cuộc
truyền giáo phát triển mạnh. Hàng trăm người đă xin ṭng giáo và
chịu phép Rửa Tội. Nhiều nhà thờ mới được xây dựng tại các họ đạo
mới như: Nhà thờ Hưng Nghĩa, nhà thờ Giang Nam, nhà nguyện Kỳ Sơn.
Ngài cũng cho xây dựng kiên cố hai nhà thờ: Mỹ Cang và Thượng Hoà.
Một số họ đạo khác cũng được thành lập mặc dù chưa có nhà thờ như
các họ đạo Thọ Nghĩa, Lộc Trung, Giang Bắc, Luật Chánh. Ngoài ra
ngài c̣n xây dựng trường tiểu học Nguyễn Kim Thông G̣ Thị, trường
học và nhà xứ họ G̣ Dài, mở rộng và xây đắp con đường Thượng Hoà-G̣
Thị-G̣ Dài. Thêm vào đó, hội Legio Mariae đă được thành lập tại giáo
xứ và phát triển nhanh chóng, trở thành Curia thuộc Comitium Qui
Nhơn.
Vào ngày 31/01/1958, G̣ Thị được công nhận là giáo xứ bán chính
thức. Ngày 06/02/1961 là giáo xứ chính thức theo đúng giáo luật.[10]
Đầu năm 1965, v́ hoàn cảnh chiến tranh, cha xứ và giáo hữu phải
di tản xuống Qui Nhơn. Đến năm 1966, một số đă lần lượt trở về,
nhưng cuộc sống vẫn chưa ổn định; một số khác vẫn ở lại Qui Nhơn
hoặc đi lập nghiệp ở những nơi khác như Nha Trang, Cam Ranh, Long
Khánh, Sài G̣n...
Măi đến năm 1973 Đức cha mới bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Văn Nhuận
về làm cha sở. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cha sở và giáo dân quyết
bám trụ cho đến tháng 3 năm 1975, lại một lần nữa cha sở và giáo dân
phải di cư. Sau 30 tháng 4 năm 1975 bà con lại từ từ trở về quê.
Năm 1975, cha Phêrô Nguyễn Quang Báu được bổ nhiệm làm cha sở G̣
Thị. Lúc bấy giờ, giáo xứ có hơn 2.400 giáo hữu, gồm có các giáo họ
tương đối đông giáo hữu và có nhà thờ như: G̣ Thị, G̣ Dài, Xuân
Phong, Thượng Hoà, Phước Thiện, Mỹ Cang, Lục Lễ. Một số giáo họ khác
không c̣n nhà thờ và chỉ có ít giáo hữu như Vinh Quang, Kỳ Sơn, Lục
Nghĩa, Lộc Trung, Giang Nam, Giang Bắc và Luật Chánh. Riêng các họ
Hưng Nghĩa và Thọ Nghĩa được sáp nhập vào Công Chánh.
Từ năm 1965, nhà mẹ và tập viện Ḍng Mến Thánh Giá đă di tản về
Qui Nhơn, nên tu viện G̣ Thị chỉ c̣n là một cộng đoàn. Sau 1975
Trường tiểu học Nguyễn Kim Thông bên cạnh nhà thờ, chính quyền mượn
làm trường cơ bản nông nghiệp, nay làm trường tiểu học thôn Xuân
Phương.
Năm 1990, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Thánh Anrê Nguyễn
Kim Thông, cha Anrê Huỳnh Thanh Khương đă cho xây lại đài kỷ niệm
Thánh nhân theo kiến trúc Á Đông, sau đó chỉnh trang khu g̣ mả thánh,
nơi có mộ Thánh Anrê Kim Thông và nới rộng con đường dẫn đến mộ để
tạo thuận lợi cho khách hành hương đến kính viếng.
Để giữ vững và tiếp nối truyền thống của một giáo xứ kỳ cựu với
những trang sử đức tin được tô thắm bởi ḍng máu anh dũng của các vị
tử đạo, những sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ G̣ Thị càng ngày càng
phát triển mạnh. Đặc biệt sau cuộc tuyên phong Hiển Thánh 117 Chứng
nhân đức tin Việt Nam ngày 19/6/1988, địa danh G̣ Thị càng trở nên
nổi tiếng và quen thuộc đối với nhiều người trong cũng như ngoài
giáo phận Qui Nhơn. Nhiều tập thể hoặc cá nhân đă đến hành hương tại
miền đất giàu truyền thống đức tin này, nơi Thánh Stêphanô Cuênot
Thể đă sống và làm việc trong hầu hết cuộc đời truyền giáo của ngài,
nơi Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông đă sinh trưởng và phục vụ mà hiện
nay vẫn c̣n lưu giữ nhiều di tích như: vườn nhà cũ, g̣ mả thánh,
quan tài, xương thánh, đài kỷ niệm và rất đông con cháu của ngài.
Mọi người đến đây để được nghe kể lại và tận mắt chứng kiến những kỷ
niệm đă tạo nên những chứng nhân anh hùng của Chúa Kitô.
Trước đà phát triển của giáo xứ, trước nhu cầu hành hương ngày
một tăng và để đáp ứng nguyện vọng của bao người, Đức Cố Giám mục
Phaolô Huỳnh Đông Các, vốn là con cháu Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông,
muốn xây lại ngôi nhà thờ G̣ Thị để đặc biệt dâng kính Thánh nhân
với qui mô lớn hơn và vững chắc hơn. Công tŕnh xây dựng đă bắt đầu
từ năm 1998 dưới thời cha Anrê Huỳnh Thanh Khương làm cha sở G̣ Thị
và hoàn tất dưới thời cha xứ đương nhiệm Phêrô Nguyễn Văn Kính, đúng
vào Năm Thánh 2000, cũng là năm kỷ niệm lần thứ 210 ngày sinh của
Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông.
Được sinh ra và lớn lên cùng với những thăng trầm của lịch sử
truyền giáo cũng như lịch sử xă hội, giáo xứ G̣ Thị đă đón nhận
nhiều thế hệ linh mục được sai đến phục vụ mà hôm nay lịch sử c̣n
ghi lại được tên tuổi của các linh mục chính xứ và phó xứ. Đây là
những linh mục đă được Thiên Chúa sai đến để hướng dẫn và đồng hành
với giáo xứ trên hành tŕnh đức tin, để cùng với mọi thành phần dân
Chúa viết nên những trang sử đức tin .
G̣ Thị không chỉ biết đón nhận mà c̣n biết cống hiến. Quả thế,
cho đến nay, giáo xứ G̣ Thị đă cống hiến cho Giáo hội 04 vị giám mục,
47 linh mục, hơn 60 tu sĩ nam nữ. Hiện nay với con số hơn 3.000 giáo
dân, giáo xứ G̣ Thị đang cùng với toàn thể giáo phận Qui Nhơn và
Giáo Hội trên khắp hoàn cầu tiến bước trong vui mừng và hy vọng.
III. CÁC LINH MỤC CHÁNH XỨ VÀ PHÓ XỨ
a. Các linh mục chánh xứ :
Hiện nay chưa t́m được tài liệu nào chính xác cho biết danh tánh
các linh mục đă ở và làm việc tại G̣ Thị từ năm 1839 trở về trước. Ở
đây chúng ta có thể bắt đầu từ Thánh Giám mục Stêphanô Thể đến ở G̣
Thị 1839 – 1861. Tiếp theo là các linh mục:
1. Cha Pascal Bossard đến G̣ Thị năm 1864, cha đă làm nhà thờ G̣
Thị.
2. Cha Pierre Jean Joseph Panis Ngăi đến G̣ Thị năm 1875 nhưng
chỉ ở trong thời gian ngắn, về dạy ở tiểu chủng viện Làng Sông được
một năm, cha trở lại làm cha sở G̣ Thị cho đến năm 1883.
3. Cha Martin Bạch (1884 – 1885)
4. Cha Vivier Huệ (1887 – 1898); cha Vivier xây lại nhà thờ G̣
Thị, làm phép năm 1897. Ngày 04/02/1898 cha Vivier qua đời tại G̣
Thị và được an táng trong nhà thờ G̣ Thị.
5. Khi cha Vivier qua đời, cha Mathey Thiện đang làm cha sở Xóm
Nam ( Nam B́nh) được bổ nhiệm làm cha sở G̣ Thị đến năm 1904.
6. Cha Panis Ngăi (1905–1920) trở lại làm cha sở G̣ Thị.
7. Cha JB Solvignon Lành (1920 – 1934)
8. Cha Fx Vỹ (1934 – 1941)
9. Cha Phaolô Trương Công Chánh (1941 – 1944)
10. Cha Anrê Phan Ngọc Lễ (1944 – 1945)
11. Cha Toma Nguyễn Văn Tới (1945 – 1952)
12. Cha Phaolô Nguyễn Tấn Th́ (1952 –1955)
13. Cha Phêrô Nguyễn Sĩ Tư (tháng 7-9/1956)
14. Cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn (1956 – 1973)
15. Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhuận (1973 – 1975)
16. Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu (1975 – 1988)
17. Cha Anrê Huỳnh Thanh Khương (1988 – 2000)
18. Cha Phêrô Nguyễn Văn Kính (2000 - ... )
b. Các linh mục Phó xứ :
1. Cha Simon Nguyễn Chính (1891 – 1894)
2. Cha F.x. Hương (1894 – 1895)
3. Cha Gioakim Đến (1900-1902)
4. Cha Phêrô Lục (1906-1911)
5. Cha F.x. Sanh (1909 – 1917)
6. Cha Phêrô Cao (1912 – 1915)
7. Cha Giacôbê Lê Kim Dung (1915 – 1917)
8. Cha Phêrô Từ (1917 – 1919)
9. Cha Giuse Nguyễn Tư (1919 – 1920)
10. Cha Tánh (1922 – 1923)
11. Cha Lệ (1923 – 1927)
12. Cha Lassalmomie Tấn (1925 – 1926)
13. Cha Antôn Phạm Cảnh Chẩm (1926)
14. Cha Phêrô Nguyễn Viết Tín (1926 – 1927)
15. Cha Joseph Clause Hồng (1927)
16. Cha Gioan Bt. Nguyễn Đức Quảng (1927)
17. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1933 – 1935)
18. Cha Phaolô Cần (1939 – 1942) – quê Hà Dừa.
19. Cha Phaolô Trần Văn Thông (1941 – 1942)
20. Cha Bonaventura Nguyễn Văn An (1943)
21. Cha Phaolô Dẫn (1943)
22. Cha Phêrô Lê Đức Châu (1943 – 1944)
23. Cha Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan (1944 – 1945)
24. Cha Phaolô Vơ Hữu Tư (1945)
25. Cha Louis Nguyễn Bảo (1944 – 1945)
26. Cha Toma Nguyễn Văn Tới (ở Lục Lễ) (1957)
27. Cha Gioakim Bùi Văn Ninh (1999 – 2001)
28. Cha Gioakim Nguyễn Ngọc Minh (2001 - 2003)
29. Cha Phêrô Lê Nho Phú (2003 - 2005 )
30. Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Hưng (2005- 2009)
31. Cha Giuse Nguyễn Đức Minh (2007 - 2012)
32. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân (2010 - ...)
33. Cha Phêrô Lê Nguyễn Hoàng Vũ (2013 - ...)
IV. CÁC GIÁM MỤC VÀ LINH MỤC XUẤT THÂN
TỪ GIÁO XỨ G̉ THỊ :
1. Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các
2. Đức cha Giuse Phan Văn Hoa
3. Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn
4. Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi
5. Cha Giuse Nguyễn Kim Thủ
6. Cha Phaolô Châu
7. Cha Biện
8. Cha Tôma Nguyễn Thiện
9. Cha J.B. Nguyễn Hộ
10.Cha Louis Huỳnh Chiếu
11.Cha Phêrô Nguyễn Sĩ Tư
12.Cha Giuse Nguyễn Sồ
13.Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan
14.Cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm
15.Cha Stêphanô Phan văn Bính
16.Cha Louis Nguyễn Bảo
17.Cha Phêrô Huỳnh Kim Lăng
18.Cha Placide Nguyễn Tấn Phát
19.Cha Giêrônimô Nguyễn Thanh Lăm
20.Cha Louis Huỳnh Nhẫn
21.Cha Antôn Hoàng Đắc Ánh
22.Cha Phêrô Vơ Vân Cẩm
23.Cha Gioan Baotixita Lê Quí Đức
24.Cha Phêrô Hoàng Kym
25.Cha Antôn Hoàng Tiến Nam
26.Cha Micae Nguyễn Tri Phương
27.Cha Phêrô Nguyễn Huy Pháp
28.Cha Anrê Huỳnh Thanh Khương
29.Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Kim Sơn
30.Cha Phêrô Nguyễn Kim Hồng
31.Cha Phêrô Lê Thanh Quang
32.Cha Giuse Nguyễn Công Thức
33.Cha Giuse Huỳnh văn Sỹ
34.Cha Gioakim Bùi Văn Ninh
35.Cha Gioan B. Nguyễn Kim Đệ
36.Cha Gioakim Trần Minh Dũng
37.Cha Gioakim Nguyễn Ngọc Minh
38.Cha Giuse Phạm Kim Quốc
39.Cha Anrê Huỳnh Tấn Nha
40.Cha Phaolô Nguyễn Văn Khiêm
41.Cha Phêrô Đỗ Quang Dũng
42.Cha Giuse Nguyễn Đức Minh
43.Cha Matthêu Nguyễn Ngọc Vũ
44.Cha Giuse Nguyễn Bá Thành
45.Cha Phêrô Nguyễn Minh Trường
46.Cha Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân
47.Cha Simon Nguyễn Thanh Tú
V. CÁC GIÁO HỌ CỦA GIÁO XỨ ( cuối năm
2012)
STT |
GIÁO HỌ |
ĐỊA CHỈ |
HIỆN TRẠNG |
GIA Đ̀NH |
GIÁO DÂN |
BỔN MẠNG |
1 |
G̉ THỊ |
Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước |
mới |
371 |
1430 |
Đức Mẹ Lên Trời |
2 |
G̣ Dài |
Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước |
mới |
187 |
770 |
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô |
3 |
Xuân Phong |
Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước |
mới |
106 |
420 |
Thánh Tâm
Chúa Giêsu |
4 |
Thượng Hoà |
Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước |
mới |
52 |
199 |
Các Thánh
Tử Đạo VN |
5 |
Phước Thiện |
Dương Thiện, Phước Sơn, Tuy Phước |
mới |
27 |
110 |
Thánh Gioan
Tẩy Giả |
6 |
Kỳ Sơn |
Kỳ Sơn, Phước Sơn,
Tuy Phước |
chưa có |
37 |
132 |
Đức Mẹ
Truyền Tin |
7 |
Vinh Quang |
Vinh Quang, Phước Sơn,
Tuy Phước |
chưa có |
|
|
|
VI. CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA GIÁO XỨ G̉ THỊ
1. Họ G̣ Thị:
- Nhà thờ khánh thành ngày 12 tháng 7 năm 2000. Dài 47m, rộng
20m, cao 18m, tháp chuông cao 40m.
- Nhà xứ : xây từ 1930, được tu sửa lại từ thời cha Huấn, và mới
sơn sửa lại, nới rộng thêm một số pḥng sinh hoạt.
- Trường Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, nhà nước đang mượn làm
trường tiểu học.
- G̣ mả Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, nơi đây có hầm mộ của Ngài.
Bà con xa gần đến hành hương.
- Đài Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông nằm trong khuôn viên nhà thờ,
được xây từ năm 1989.
- Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức đối diện với Đài Thánh Anrê Nguyễn Kim
Thông được hoàn thành cùng ngày với nhà thờ.
- Di tích Toà Giám mục Địa phận Đàng Trong: Nằm trong khuôn viên
Nhà Chung. Đức Thánh Giám mục Stêphanô Thể đă “hầm trú” tại đây suốt
26 năm, ngài đă mở công đồng G̣ Thị năm 1841. Ngày nay một đài kỷ
niệm được xây trên nền cũ của Toà Giám Mục Địa phận Đàng Trong. Đây
là một di tích lịch sử đáng ghi nhớ.
- Nhà Chung : Ngày xưa là nhà mồ côi nam và nhà mồ côi nữ, nay do
các nữ tu Ḍng Mến Thánh Giá G̣ Thị phụ trách.
- Tu viện Mến Thánh Giá G̣ Thị : Gồm một toà nhà 2 tầng, dài
khoảng 80 mét và một nhà hưu dưỡng 2 tầng mới xây xong năm 2003. Đây
là cái nôi của Ḍng Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
2. Họ G̣ Dài:
- Nhà thờ mới xây lại, mái tôn, tường đá rửa, dài 24m, rộng 12m
cả hè, tháp chuông cao 16m, chung quanh tường thành và sân nhà thờ
được bê-tông hoá sạch sẽ.
- Nhà vuông 2 pḥng rộng răi thoáng mát.
- Hội trường gồm 3 pḥng dành cho các em học giáo lư.
3. Họ Xuân Phong:
- Nhà thờ đă được đại trùng tu và khánh thành vào mồng 3 tết năm
2003.
- Nhà vuông dài 8m, rộng 5m, vừa mới sửa lại làm nơi sinh hoạt
của giáo họ.
- Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức.
4. Họ Thượng Hoà:
Nhà thờ được xây từ thời cha Nguyễn Trọng Huấn, đă được đại trùng
tu và khánh thành vào mùng 03 tết 2004.
5. Họ Phước Thiện:
Nhà thờ được xây từ thời cha Nguyễn Trọng Huấn. Nay đă được trùng
tu khang trang và một nhà vuông rộng răi chung quanh có tường thành
bao bọc.
6. Họ Kỳ Sơn và Vinh Quang
Chỉ c̣n lại nền nhà thờ.
Tham khảo :
[1] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, Paris
2000, T.II, p. 189.
[2] Tên gọi vùng đất tam giác Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước được hưởng
đặc quyền của triều đ́nh lúc bấy giờ.
[3] xem tiểu sử Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm cả G̣ Thị
[4] Mgr Van Camelbeke, Rapport 1882.
[5] Mgr Grangeon, Rapport 1905 ; Mm. 10/1919, p.139
[6] Mm. No.69,11/1910, p.90
[7] Notic biographique de Bossard ; R.A.E. 1881
[8] Rapport 1897
[9] Rapport 1871
[10] Thông tin địa phận số 03/1958 và số 22/ 1961
Tác giả bài viết: BTTVH
Nguồn tin: Gpquinhon.org
|