Giáo phận Thái Bình

Nhà thờ Giáo xứ Ninh Cù

 

Nhà thờ Giáo xứ Ninh Cù
Giáo hạt Thái Thụy

 

Địa chỉ :  xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.   ( Bản đồ )

Quản xứ : Linh mục Gioan Maria Đặng Đăng Khoa, CRM (1/2019)

Tel

 

E-mail

 

Năm thành lập

1721

Bổn Mạng

 

Số giáo dân

901

Giờ lễ

Chúa nhật     :

Ngày thường :

Các nhà thờ lân cận :   Gh An Bài  -  Gh Minh Đức

Tư liệu :  Lược sử Giáo xứ - Hình ảnh Giáo xứ 

-  Tin tức sinh hoạt

* Giáo xứ Ninh Cù : tuần Chầu lượt - mừng lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô (28/5/2016) - Hình ảnh
* ĐGM thăm viếng mục vụ giáo xứ Ninh Cù  (18/11/2010)

 

Lược sử Giáo xứ Ninh Cù

I - VỊ TRÍ

Giáo xứ Ninh Cù còn có tên là Kẻ Hệ tọa lạc trên phần đất thuộc xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; cách Tòa giám mục khoảng 30 km về hướng Đông Bắc; nằm cạnh sông Hóa, giáp với giáo phận Hải Phòng.
Năm thành lập: 1721
Bổn mạng: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Số giáo dân khoảng 901
Linh mục quản nhiệm: Gioan Maria Đặng Đăng Khoa, CRM 
Địa chỉ: Nhà thờ Ninh Cù, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

II - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Ninh Cù, cũng được gọi là Kẻ Hệ, trước đây là tổng lỵ của tổng Ninh Cù, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình.

Căn cứ vào lịch sử lập xứ Kẻ Bái, thì Ninh Cù đã được đón nhận Tin Mừng từ đời vua Lê Thần Tông, giữa thế kỷ thứ XVII. Lúc đầu, Ninh Cù là một họ lẻ thuộc xứ Kẻ Bái.

Ninh Cù được nâng lên hàng giáo xứ vào đầu thế kỷ thứ XVIII và nhận Đức Mẹ Mân Côi làm bổn mạng. Năm 1721, cha chính Bá (Bartolomeo Sabuquillo, cha Dòng Đaminh) coi sóc xứ Kẻ Hệ, đã cho xây dựng ngôi thánh đường đầu tiên.

Khoảûng giữa thế kỷ thứ XIX (1852 - 1857), Đức cha thánh An (José Diaz Sanjurjo) đã lập một Tu viện dòng nữ Đaminh tại Ninh Cù. Đầu thế kỷ thứ XX, các nữ tu đã xây dựng một nhà thương để chăm sóc những người già lão, bệnh tật, cô đơn không phân biệt lương giáo.

Thời vua Tự Đức bách hại đạo, tín hữu Ninh Cù rất trung kiên giữ đức tin. Ninh Cù đã đóng góp vào vườn Vạn tuế Thái Bình 18 vị Hiền phúc, được ghi vào sổ bộ tử đạo Rôma chờ ngày vinh quang lên hàng Chân phước.

Năm 1998, cha Đaminh Đặng Văn Gia cùng với giáo xứ đại tu ngôi thánh đường.

Giáo xứ Ninh Cù gồm: Giáo họ Minh Đức (Tô Hồ) và Giáo họ An Bài.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, giáo xứ Ninh Cù tuy nhỏ bé nhưng luôn được sự quan tâm chăm sóc của các Đấng bậc trong ngoài giáo phận. Vì thế ngay từ những ngày đầu, giáo xứ đã có các cha về coi sóc trực tiếp: cha Tuệ, cha Đaminh Đức, cha Vị, cha Hiển trong thời Tự Đức cấm đạo. Thời kỳ Phân Sáp có cha chính Du, cha Cao, cha Chủ, cha Trác, cha Trang, cha Văn, cha Phú, cha Trí, cha Duyệt, cha Điển, cha Tri, cha Quý, cha Chuẩn, cha Toàn v.v. Đầu thế kỷ XX có: cha Đức (1912), cha Cổn (1915), cha Nguyên (1921), cha Vinh sơn Đạt, cha Chấn (1935), cha Thu, cha Toàn. Sau năm 1954, cha Tôma Vũ Nguyên Sùng, cha Augustinô Vũ Văn Hương, cha Đaminh Đặng Văn Gia và hiện nay là cha Phêrô Đinh Văn Hùng.

III - TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

Tuy là một giáo xứ nhỏ bé, Ninh Cù vẫn giữ được nhiều nét truyền thống tốt đẹp của cha ông thuở ban đầu, theo sát tinh thần của Tin Mừng. Vì thế, ngày nay giáo xứ có các hội đoàn hoạt động đều như: Huynh đoàn giáo dân Đaminh, hội Gia trưởng, hội Hiền mẫu, Giới trẻ, hội Kèn đồng, hội Trống, Giáo lý, Ca đoàn và Giáo lý viên. Về cơ sở vật chất, giáo xứ tập trung tái thiết và làm mới nhiều công trình, tạo nên một khung cảnh giáo xứ khang trang, sạch đẹp.

Nguồn : Website Giáo Phân Thái Bình

 

GIÁO XỨ NINH CÙ

Nguồn : http://dongten.net/jptlsj/  

Trước khi đề cập tới giáo xứ Ninh Cù, thiết tưởng cũng nên có cái nhìn tổng quan về một vài niên biểu mốc của một số giáo phận miền Bắc liên quan đến giáo phận Thái Bình.

Giáo phận Thái Bình

Ngày 9.09.1659 với đoản sắc Super Cathedram, Đức Giáo Hoàng Alexander VII (1655-1667) thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận tông tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Năm 1679 Đức Giáo Hoàng Innocens XI (1676-1689) chia giáo phận tông tòa Đàng Ngoài làm hai: Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài lấy sông Lô, sông Hồng (và sông Đáy) làm ranh giới.

Ngày 27.03.1846 Đức Giáo Hoàng Gregorius XVI chia giáo phận Tây thành Tây và Nam Đàng Ngoài (Vinh: Bố Chính, Nghệ An, Hà Tĩnh).

Ngày 15.04.1895 Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã phân chia giáo phận Tây thành Tây và Đoài (Hưng Hóa).

Ngày 2.04.1901 Đức Giáo Hoàng Leo XIII chia giáo phận Tây thành Tây và Thanh.

Ngày 3.12.1924 khi các giáo phận được đổi tên theo địa bàn hành chính, thì giáo phận tây là giáo phận Hà Nội, và giáo phận Thanh là giáo phận Phát Diệm.[1]

Ngày 5.09.1848 Đức Giáo Hoàng Pius IX (1848-1878) chia giáo phận Đông thành Đông và Trung; sở dĩ gọi là Trung vì nó năm giữa giáo phận Đông và Tây.[2]

Ngày 29.05.1883 Đức Giáo Hoàng Leo XIII (1878-1889) ban chiếu thư lập giáo phận Bắc gồm một phần của giáo phận Đông; giáo phận Đông năm 1890 dời tòa giám mục ra Hải Phòng..

Ngày 3.12.1924 Tòa Thánh đổi tên giáo phận Đông theo địa hạt hành chánh, nơi đặt tòa giám mục, gọi là giáo phận Hải Phòng; giáo phận Trung thành giáo phận Bùi Chu; giáo phận Bắc được gọi là Bắc Ninh.

Ngày 9.03.1936 Đức Giáo Hoàng Pius XI ban sắc chỉ Praecipuas inter Apostolicas tách hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên để thành lập giáo phận Thái Bình từ giáo phận Bùi Chu.[3]

Ngày 24.11.1960 Tòa Thánh lập hàng giáo phẩm Việt Nam, giáo phận tông tòa được nâng lên hàng chính tòa.[4]

Giáo xứ Ninh Cù

Vào năm 1936 giáo phận Thái Bình gồm 1 giám mục, 25 linh mục Tây Ban Nha, 57 linh mục Việt Nam, 333 thầy giảng, 10 nữ tu dòng Saint Paul de Chartres, 12 sư huynh Lasalle, 280 dì phước ĐaMinh, 140.000 giáo dân. Giáo phận gồm có 50 giáo xứ và 522 giáo họ.[5]

Địa chỉ và tên gọi tôn giáo

Theo Niên Giám 2005, giáo xứ Ninh Cù thuộc hạt Thái Thụy của giáo phận Thái Bình, có 717 tín hữu, tọa lạc tại xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình;[6] tuy nhiên, nhà thờ Ninh Cù chính xác tọa lạc tại thôn Hệ (Ninh Cù), xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.[7]

 

 

Nhà Thờ Ninh Cù tại Thụy Ninh, Thái Thụy, Thái Bình. Hình chụp ngày 12.12.1993

 

Theo tài liệu viết tay trong Sổ Hôn Phối của giáo xứ Kẻ Hệ và sau đó là giáo xứ Ninh Cù, thì giáo xứ Kẻ Hệ được đổi tên là giáo xứ Ninh Cù vào khoảng 09.01.1936 và 24.02.1936. Vào thời điểm này Kẻ Hệ, và sau đó là Ninh Cù, vẫn thuộc giáo phận Bùi Chu, vì giáo phận Thái Bình chỉ được thành lập từ ngày 9.03.1936.

Có lẽ chính trong tinh thần đổi tên giáo phận theo tên hành chánh dân sự của Giáo Hội mà giáo xứ Kẻ Hệ được đổi tên thành giáo xứ Ninh Cù. Tên các giáo phận đã được đổi vào 3.12.1924. Tên giáo xứ Kẻ Hệ được đổi thành Ninh Cù vào tháng giêng hoặc tháng hai năm 1936.

 

 

Ngày 9 Januarii 1936

Tôi là thầy cả Docus Chấn đang coi xứ Kẻ Kệ đã làm phép cưới tại nhà thờ Hệ …………..

Ngày 24-2-1936

Tôi là thầy cả Docus Chấn đang coi xứ Ninh Cù đã làm phép Hôn Phối tại ………………..

 

 

Chứng từ chứng Hôn Phối, có con dấu của linh mục với chữ
“KẺ HỆ XỨ- LINH MỤC- VICARIAT CENTRAL.” Vicariat Central là địa phận Trung, sau được đổi tên là giáo phận Bùi Chu. Chứng từ này được viết ngày 29 tháng 10 năm 1933.

 

Tôi là thầy cả Docus Toãn đang coi sóc xứ Kẻ Hệ vâng … Đức Thầy … địa phận Trung trong nước Annam này mà sắm sách này có 300 tờ cho được biên các kẻ nhận phép Matrimo trong xứ này bắt đầu biên tự ngày mồng 1 tháng Jannuarii năm 1907 mà đi cứ mẫu Đức Cha đã truyền mà biên như sau này.  Ngày 1 Jannuarii 1907

Kẻ Hệ[8] đã được nhắc tới trong tiểu sử thánh Matthêu Alonso Liciniana Đậu (1702-1745), linh mục dòng Đa Minh. Theo tài liệu này, cha thánh đã từng coi xứ Trung Lao, Tiên Chu, Kẻ Hệ và Lai Ổn.[9] Ở thời điểm này Kẻ Hệ thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài. Từ ngày 05.09.1848 thì Kẻ Hệ thuộc giáo phận Trung, từ ngày 3.12.1924 thì thuộc giáo phận Bùi Chu vì giáo phận Trung được đổi tên thành giáo phận Bùi Chu, và từ ngày 09.03.1936 thì Kẻ Hệ thuộc giáo phận Thái Bình.

 

 

Nhà Thờ Ninh Cù tại Thái Bình, hình chụp ngày 12.12.1993

 

Địa danh hành chánh dân sự

Trước khi Ninh Cù là tên của một giáo xứ, thì Ninh Cù đã là một địa danh hành chánh dân sự của tỉnh Thái Bình.

Ninh Cù là tên của một con sông: sông Ninh Cù là hữu ngạn của sông Hóa. Trong trang web http://www.vietshare.com/quehuong/thaibinh/dialy.asp  được đọc thấy vào ngày 12.10.2005:

Sông Luộc là ranh giới giữa tỉnh Thái Bình với các tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, chảy ven tỉnh trên một đoạn đường dài 50 km (31.3 miles); và có các sông nhánh: sông Tiền Hưng (có vài sông nhánh nhỏ là Trinh Xuyên, Cổ Quan, Văn Giáng, Nguyên Xá, Do Kỵ, Cổ Khúc và lạch Bình Cách), sông Đan Hội, sông Quỳnh Côi, sông Diêm Hộ, sông Hóa (có một sông nhánh phía hữu ngạn là sông Ninh Cù).

Ninh Cù là tên của một xã, và cũng là tên của một tổng. Theo trang web của tỉnh Thái Bình (http://www.thaibinh.gov.vn) được đọc ngày 12.10.2005, mục “Thái Bình thời Pháp thuộc”:

Ngày 21-3-1890 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình). Tỉnh lỵ đặt tại phủ Kiến Xương, bên sông Trà Lý. Ngày 28 – 11- 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.

Theo Nomencilature đes communes du Tonkin (Danh mục các làng xã Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn), năm 1927 tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ (Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng), 9 huyện (Duyên Hà, Đông Quan, Hưng Nhân, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Vũ Tiên) với 94 tổng (817 xã).

Thái Bình là tỉnh từ năm 1890. Cũng chiếu theo nghị định này, Ninh Cù một tổng trong huyện Thụy Anh:

Theo Nomencilature đes communes du Tonkin (Danh mục các làng xã Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn), năm 1927 tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ (Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng), 9 huyện (Duyên Hà, Đông Quan, Hưng Nhân, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Vũ Tiên) với 94 tổng (817 xã)......

HUYỆN THỤY ANH gồm 9 tổng, 69 xã:

+ Tổng An Bái (8 xã): An Bái, Kha Lý, Quỳnh Lý, Thọ Cách, Trình Trại, Tu Trình, Vân Am, Vân Tràng.

+ Tổng An Định (7 xã): An Định, An Lệnh, Hạ Tập, Ô trình, Thượng An, Trà Bôi, Trà Hồi.

+ Tổng Bích Du (10 xã): Bằng Lương, Bích Đoài, Bích Du, Các Động, Hà My, Sơn Cao, Sơn Thọ, Thuỳ Dương, Tử Các, Vọng hải.

+ Tổng Cao Dương (6 xã): An Cúc, Cao Dương, Cao Trai, Hòa Đồng, Thu Cúc, Xá Thị.

+ Tổng Hoành Sơn (12 xã): Cam Đoài, Cam Động, Di Phúc, Dương Thanh, Đông Tỉnh, Hạc Ngang, Hoành Quan, Hoành Sơn, Hoành Thượng, Lai Chiểu, Thuyền Đỗ, Trung Quan.

+ Tổng Hổ Đội (8 xã): Bao Hàm, Diêm Điền, Hoa Ngạc, Hổ Đội, Mai Diêm, Nghĩa Chỉ, Ngoại Trình, Quang Lang.

+ Tổng Ninh Cù (4 xã): Bùi Đình, Cao Cương, Ninh Cù, Vân Cù.

+ Tổng Quảng Nạp (7 xã): An Cố, Diêm Tỉnh, Đông Dương, Lưu Đồn, Quảng Nạp, Phương Man, Vạn Đồn.

+ Tổng Vạn Xuân (7 xã): Bình Lãng, Chỉ Bồ, Lỗ Trường, Phấn Vũ, Tam Tri, Tri Chỉ, Vạn Xuân.

Tìm trên google từ ngữ Ninh Cù với tùy chọn tìm chính xác từ, và rồi liên kết với những trang bản đồ, ngày 12.10.2005 đã đọc được:

nơi trang http://new.mapplanet.com/mp/mp/places/VM/35/6793178: Ninh Cù thuộc tỉnh Thái Bình nước Việt Nam ở 20º36’00’’ vĩ bắc và 106º28’00’’ kinh đông.

Nơi http://www.fallingrain.com/world/VM/a/N/i/: Ninh Cù ở 20.6 vĩ bắc và 106.466 kinh đông, cao hơn mặt nước biển 9 feet, dân số ước lượng khoảng 143829 người. Có lẽ phải hiểu đây là một tổng thời Pháp thuộc thì dân số mới đông được như vậy.

Con cái giáo xứ Ninh Cù ở cả Bắc lẫn Nam

Vào năm 1954 cha cố ĐaMinh Đỗ Vạn Toàn đã dẫn tất cả giáo dân giáo xứ vào Nam trừ hai người không có mặt tại giáo xứ vào thời điểm đó.

Nhờ hai người này mà có được 33 người vào năm 1993, thuộc cư dân giáo xứ Ninh Cù giáo phận Thái Bình. Những giáo dân ưu tú này vẫn ở bên cạnh nhà thờ để trông nom và bảo vệ thánh đường. Chính nhờ họ mà nhà thờ Ninh Cù vẫn tồn tại ở giáo phận Thái Bình.

Năm 1957 cha cố ĐaMinh Đỗ Vạn Toàn và phần lớn giáo dân xứ Ninh Cù đã chọn Cái Sắn là nơi định cư. Vào thời điểm này Cái Sắn thuộc giáo phận Cần Thơ vì giáo phận Long Xuyên chưa có. Vào ngày 24.11.1960 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban sắc chỉ Christi Mandata thành lập giáo phận Long Xuyên, và hiên nay giáo xứ Ninh Cù thuộc giáo phận Long Xuyên. Theo đơn vị hành chánh dân sự, giáo xứ Ninh Cù của giáo phận Long Xuyên nằm tại ấp Đông Hòa, xã Thạnh Đông B1, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

 

 

Nhà Thờ Ninh Cù tại Đông Hòa, Tân Hiệp, Kiên Giang. Hình chụp khoảng ngày 27.12.2003

 

Con cái của những Đấng Bậc Anh Hùng

Theo một tác giả có bài đăng trên trang web, thì Kẻ Hệ cũng có người tử đạo và hiện trong danh sách hiền phúc (servus Dei):

Theo hồ sơ xin phong Chân Phúc của cha chính An (P. Fr. Marco Gispert O.P.), thì Hiền Phúc Đaminh Nhu người giáo xứ Kẻ Hệ, nay là xứ Ninh Cù, giáo phận Thái Bình bị bắt vì đạo lúc đã hơn 40 tuổi. Ông là một chức dịch trong làng, tính ông cương trực, táo bạo, từng dám cãi lý với quan trên. Quan này muốn ông bước qua Thánh Giá nhưng ông không chịu. Lúc ấy quan cho lôi ông qua tượng Thánh giá, ông lớn tiếng phản kháng hành vi đó, nhưng cũng được tha cho về với điều kiện ông phải mua cho quan một đôi gà mái. Hiền Phúc Nhu trở về nhà, nhưng đau đớn não nề vì bị kéo qua Thánh Giá, ông hồ nghi không biết có phạm tội bước qua tượng không. Hôm sau Hiền Phúc Nhu mua một đôi gà đem lên cho quan. Tuy nhận gà, nhưng quan lại bắt ông bước qua Thánh Giá mới cho về. Ông không chịu, nên quan cho giải ông lên Nam Định. Sau ông được phúc tử đạo.[10]

Hiện tại xứ Ninh Cù tại Đông Hòa, Thạnh Đông B1, Tân Hiệp, Kiên Giang còn giữ được sổ Hôn Phối của giáo xứ Kẻ Hệ (và sau đó là Ninh Cù) và nhờ đó tôi mới biết xứ Kẻ Hệ được gọi là Ninh Cù từ tháng 2.1936.[11] Dựa vào quyển sách này, nếu muốn, người ta có thể biết có bao nhiêu linh mục đã coi sóc họ đạo Ninh Cù.

Để giới thiệu đầy đủ hơn về giáo xứ, thiết tưởng cũng cần cho người đọc biết những cha đã trông coi giáo xứ Ninh Cù của cả Bắc lẫn Nam; cũng cần có thông tin về Hội Đồng Giáo Xứ của từng thời điểm, cũng như những người dâng mình cho Chúa, và cả những biến cố đặc biệt của giáo xứ. Điều này hiện tại tôi không thể làm được, nếu ai thuộc con dân giáo xứ Ninh Cù làm được thì thật quý biết bao.

Ước gì những hàng trên giúp những con dân xứ Ninh Cù hiểu hơn về giáo xứ của mình, để yêu mến Thiên Chúa- Đấng đã và đang làm bao điều kỳ diệu cho con dân giáo xứ Ninh Cù- Kẻ Hệ.

Hiển Linh, Thủ Đức ngày 24.10.2005 

Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.


[1] VĂN PHÒNG TỔNG THƯ KÝ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam- Niên Giám 2005, Hà Nội: Tôn Giáo, 2005, trang 518-520.578-579

[2] Niên Giám 2005, trg 551.

[3] Niên Giám 2005, trang 594

[4] Niên Giám 2005, trang 531-532

[5] Niên Giám 2005, trang 594.

[6] Niên Giám 2005, trang 596.

[7] Ngày 24.10.2005 tôi đã gọi điện thoại cho cha Aug. Vũ Văn Hương đang ở nhà thờ Thượng Phúc, và Ngài đang phụ trách giáo xứ Ninh Cù để hỏi địa chỉ chính xác của giáo xứ Ninh Cù. Ngài cho biết giáo xứ Ninh Cù ở Thụy Ninh, Thái Thụy, Thái Bình chứ không ở Thụy Thanh, Thái Thụy, Thái Bình.

[8] Thôn Hệ có cả người lương lẫn người giáo. Đầu thôn có một ngôi đền khá lớn cho người lương, còn người giáo thì có nhà thờ Ninh Cù khá lớn ở cuối thôn.

[9] Tìm chữ Kẻ Hệ nơi google.com với tùy chọn chính xác từ, nối kết tìm được vào ngày 12.10.2005 trang http://www.thoidiemmaria.net/THANHTHE/Tu%20Dao%20Viet%20Nam/22-1.htm với nội dung trên.

[10] Tìm trong google chữ “Kẻ Hệ” với thuộc tính tìm chính xác từ. Bài này được trang web bbqt post lên.: http://www.bbqt.com/forum/index.php?showtopic=996  và đã được đọc ngày 12.10.2005.

[11] Hôm thứ sáu 21.10.2005 tôi có dịp chụp lại quyển sổ này, và các bạn cũng đã xem vài tấm hình ở những trang trên. Sau khi chụp xong, tôi cũng đã lưu tất cả trong máy vi tính của cha Nguyễn Văn Hiến, chánh xứ xứ Ninh Cù.

..............................

Đôi dòng lược sử giáo xứ Ninh Cù

Trường Giang - VietCatholic 18/11/2010

Giáo xứ Ninh Cù cách Tòa giám mục Thái Bình khoảng 40km về hướng đông bắc, tọa lạc bên dòng sông Hóa, ranh giới giữa giáo phận Thái Bình và Hải Phòng, thuộc xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào lịch sử lập xứ Kẻ Bái (nay là giáo xứ Bồ Ngọc) thì Ninh Cù cũng gọi là Kẻ Hệ, đã được đón nhận Đức Tin đạo Chúa từ đời vua Lê Thần Tông, đầu thế kỷ thứ XVIII (1704). Lúc đầu Ninh Cù là một họ lẻ thuộc xứ Kẻ Bái, nhận Đức Mẹ hồn xác lên trời làm quan thày giáo xứ. Có lẽ Ninh Cù trở thành giáo xứ vào đầu thế kỷ thứ 19. Năm 1721 cha chính Bá (Bartolomeo Sabuquillo) đã coi sóc xứ Kẻ Hệ. Khoảng giữa thế kỷ thứ 19 (1852-1857), Đức cha thánh An (J.M. Diaz Sanjujo) đã lập một nữ tu viện dòng Đaminh tại Ninh Cù. Đầu thế kỷ thứ 20, Ninh Cù có một nhà thương do các nữ tu chăm sóc cho những người già lão bệnh tật cô đơn, không có người thân thuộc, không phân biệt lương giáo. Thời bách đạo, tín hữu Ninh Cù rất trung kiên giữ vững Đức Tin, đã đóng góp vào Vườn Vạn Tuế Thái Bình 18 vị hiền phúc tử đạo.

       

Trước kia, Ninh Cù có tới 10 họ lẻ. Sau đó được cắt bớt để thành lập các xứ mới. Ngày nay Ninh Cù còn 2 họ lẻ là họ Minh Đức và họ An Bài. Trước năm 1954, Ninh Cù là một xứ đạo đông giáo dân, sầm uất một thời. Cũng chính vì thế nơi đây đã sản sinh ra rất nhiều hạt giống ơn gọi cho cánh đồng truyền giáo của Chúa. Gần hai chục linh mục, tu sĩ gốc Ninh Cù đang phục vụ các nơi trong nước cũng như nước ngoài. Giáo xứ Ninh Cù hiện nay có khoảng hơn 700 nhân danh; họ nhà xứ khoảng 30 nhân danh, họ Minh Đức khoảng 600 nhân danh và họ An Bài khoảng 80 nhân danh, dưới sự quản nhiệm của cha Phê rô Đinh Văn Hùng. Ngôi thánh đường kiến trúc kiểu Á-Đông bằng gỗ, lợp ngói, tường xây gạch rất cao to và thoáng mát được xây dựng từ năm 1938, với tổng diện tích 490m2, bàn tòa sơn son thếp vàng. Ngôi thánh đường ngâm mình trong mưa nắng và chịu đựng trong chiến tranh nên đã bị xuống cấp, giáo xứ đã trùng tu lại, đến nay ngôi thánh đường vẫn hiên ngang đứng vững. Hai tháp chuông cao đối xứng nhau làm cho toàn cảnh tạo nên một công trình Đức Tin nổi lên giữa làng của miền quê lúa, sớm tối vẫn vang vọng lời kinh nguyện cầu.

Trường Giang - VietCatholic 18/11/2010


Hình ảnh nhà thờ Giáo xứ Ninh Cù

Hình ảnh Giáo xứ Ninh Cù : tuần Chầu lượt - mừng lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô (28/5/2016)

Nguồn : Website GP Thái Bình

 

 

 

 

 

Hình ảnh bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com