Thái B́nh là một trong những vùng đất h́nh thành các giáo xứ Công
giáo tại Việt Nam. Tuy nhiên, Giáo phận Thái B́nh lại là giáo phận
được thành lập muộn nhất trong Giáo tỉnh Hà Nội. Ngày 9 tháng 3 năm
1936, Đức Giáo hoàng Piô XI ban Sắc chỉ Praecipuas inter Apostolicas
thành lập Giáo phận Thái B́nh gồm hai tỉnh Thái B́nh và Hưng Yên,
tách ra từ Giáo phận Bùi Chu. Ngày 15 tháng 6 năm 1936, Ṭa Thánh bổ
nhiệm cha Gioan Casado Thuận (Juan Casado Obispo) làm giám mục đại
diện tông ṭa Thái B́nh. Dù là một giáo phận nhỏ nhưng Thái B́nh đă
đóng góp 19 trong số 117 Thánh tử đạo Việt Nam. Tuy mới thành lập,
nhưng Giáo phận Thái B́nh có chung bề dày lịch sử với những biến cố
thăng trầm của giáo phận mẹ Bùi Chu cũng như các giáo phận khác
trong Giáo tỉnh Hà Nội.
1. HẠT GIỐNG TIN MỪNG TRÊN ĐẤT THÁI B̀NH
Có
thể nói, hạt giống Tin Mừng được gieo vào miền đất Thái B́nh từ
rất sớm. Theo sử sách để lại, năm 1638, sau khi được cử đến Đàng
Ngoài loan báo Tin Mừng tại Kẻ Chợ, bằng đường sông Luộc, cha
Felice Morelli đă đặt chân đến làng Bồ Trang (thuộc xứ Bồ Ngọc,
Giáo phận Thái B́nh ngày nay) để giảng đạo và được người dân nơi
đây niềm nở tiếp đón. Từ đây Tin Mừng dần dần được lan rộng đến
các làng khác trong Phủ Thái B́nh. Tại Bồ Trang, cha Felice
Morelli đă sao chép cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” của cha Đắc Lộ
làm tài liệu giảng đạo.
Năm
1640, cha Felice Morelli thay thế cha bề trên Gaspar d’Amaral,
lănh đạo giáo phận Đàng Ngoài. Thời gian này vua Lê, chúa Trịnh
rất có cảm t́nh với các thừa sai, nên chúa Trịnh Tạc đă nhận cha
Felice Morelli làm dưỡng tử và gọi cha là Phúc Ông (dịch từ chữ
Felice). Trong hoàn cảnh thuận lợi này, cha đă lập xứ đầu tiên
trên phần đất Giáo phận Thái B́nh, đó là xứ Kẻ Bái (xứ Bồ Ngọc
ngày nay). Kẻ Bái đă trở thành cái nôi Đức Tin của Giáo phận.
Đây là thành quả đầu tiên của các thừa sai nói chung, đặc biệt
là cha Felice Morelli sau những năm miệt mài với công cuộc rao
giảng. Biến cố đặc biệt này, được dân gian ghi lại qua bài vè:
Bảy năm đi hết cả miền,
Th́ thầy ở lại hẳn miền Bồ Trang,
Lập nên xứ Bái rơ ràng,
Nam xuống Lai Ổn, Đông sang Ninh Cù.
Chuông treo trống sắm cờ mua,
Bấy giờ là lúc hết mùa Giêgiung (Mùa Chay: Jejunium)
Năm
1649, cha Morelli trao quyền lănh đạo giáo phận Đàng Ngoài cho
cha Girolamo Magori và trở về Macao năm 1650.
Như
vậy, chúng ta có thể quả quyết rằng thừa sai Felice Morelli -
một linh mục Ḍng
Tên, quốc tịch Italy – được coi là “tổ phụ” truyền giáo của Giáo
phận Thái B́nh. Ngài trực
tiếp gieo rắc hạt giống Tin Mừng trên phần đất giáo phận từ năm
1638 cho đến năm 1649.
Năm
1659 Đức GH Alexandro VII công bố sắc lệnh thiết lập hai Giáo
phận Đàng Ngoài (gồm khu vực Bắc Hà) và Đàng Trong (gồm khu vực
Chúa Nguyễn, Cao Miên, Thái Lan); và bổ nhiệm hai vị Giám quản
tông ṭa đầu tiên cho hai Địa phận : ĐC Phanxico Pallu làm giám
quản tông ṭa Đàng ngoài và ĐC Lambert de la Motte làm Giám quản
Đàng Trong.
Năm
1665, ĐC Pallu về Roma để xin Ṭa thánh cử thêm Thừa sai, ĐC
Lambert kiêm nhiệm Giám quản Đàng Ngoài, ngài đă tiến hành nhi?u
chương tŕnh mục vụ tại Đàng Ngoài :
Tháng 6 năm 1669 cùng với hai thừa sai De Bourges và Bouchard
đặt chân tới Phố Hiến Đàng Ngoài bằng tàu buôn nước ngoài, đóng
vai các thương gia. Sau 6 tháng hoạt động tại Đàng Ngoài, các
ngài đă ban các bí tích Rửa tội và Thêm sức cho nhi?u người.
Ngày 26-2-1670 ngài chính thức thiết lập hội Ḍng Mến Thánh Giá
và đă nhận lời khấn của hai nữ tu đầu tiên Annê và Paula, người
xứ Kiên Lao (Bùi Chu) như nền tảng của Hội Ḍng này trên toàn
nước Việt Nam.
1.1 Công đồng Phố Hiến (Dinh Hiến) 1670
Đặc
biệt trong hoàn cảnh cấm Đạo, thiếu nhân sự, ĐC Lambert đă triệu
tập Công đồng Giáo phận Đàng Ngoài lần đầu tiên (cũng là Công
đồng đầu tiên của Giáo hội tại Việt Nam), tại Phố Hiến , thuộc
trấn Nam Sơn (nay thuộc thị xă Hưng Yên, giáo phận Thái B́nh).
Thực tế là cuộc họp trên một tàu buôn đang neo đậu trên sông
cạnh Phố Hiến.
Đó
là ngày 14 tháng 2 năm 1670, nhân dịp Mùa Chay thánh, Công đồng
chính thức khai mạc dưới quyền chủ tọa của ĐC Lambert. Các thành
viên tham dự gồm cha Chính giáo phận Deydier, hai thừa sai là
Bourges và Bouchard cùng 7 LM đầu tiên của Việt Nam (cũng nên
nhắc lại : tháng Giêng năm ấy Ngài đă truyền chức cho 7 tân LM
là các cha Mattheu Mát, Simon Kiên, Antôn Quế, Philipphê Nhân,
Giacobê Chiêu, Lêô Trung và Benedicto Tri).
Công đồng nhằm phổ biến các Nghị quyết của Ṭa thánh về trách
nhiệm và quyền hành của các vị Đại diện tông ṭa, tổ chức cơ cấu
mọi sinh hoạt tôn giáo trong Địa phận, đồng thời ra Huấn thị gồm
33 điều khoản, phần dâ giống như Huấn thị của đồng Juthia năm
1664 tại Thái Lan, chỉ sửa đổi nh?ng ǵ cần thiết cho thích hợp
với hoàn cảnh và phong tục địa phương, Huấn thị này sau đó đă
được Đức thánh cha Clemente X châu phê ngày 23-12-1673. Ngoài
việc nhắc lại nh?ng quyết định của Công đồng Juthia, công đồng
c̣n thêm nh?ng quyết định sau đây :
-
Chính thức nhận thánh Giuse là bổn mạng cho toàn thể Giáo hôi
Việt Nam
-
Chia Địa phận Đàng Ngoài ra thành 9 giáo hạt và sẽ nhóm họp hằng
năm.
-
Ấn
định đào tạo Chủng sinh qua tổ chức Nhà Đức Chúa Trời.
-
Các
nhà thờ phải công bố sắc chỉ của Tông ṭa về quyền Đại diện Tông
ṭa. Các LM phải nhận quyền từ Giám Mục Đại diện Tông ṭa mới
được giảng Đạo và giải tội.
-
Riêng về tổ chức Nhà Đức Chúa Trời vốn đă có từ thời Cha
Alexandre de Rhode, công đồng đưa ra chỉ thị gồm 5 điểm :
1. Người
Nhà ĐCT lên bậc Thày phải có tinh thần thoát tục và hy sinh,
phải khấn ba điều Vâng phục, Độc thân và sống chung cộng đoàn.
2. Các
Thày phục vụ ở đâu phải vâng phục Linh mục nơi đó như bề trên của
ḿnh.
3. Các
Thày được cử đi các họ lẻ để dạy Giáo lư và hướng dẫn bổn đạo
đọc kinh cầu nguyện.
4. Những
ǵ bổn đạo biếu tặng phải để làm của chung.
5. Buộc
các Linh mục phải săn sóc dạy bảo mọi người Nhà Đức Chúa Trời
thuộc quyền.
Sau
cuộc khai phá Đức Tin trên vùng đất mới của thừa sai các Ḍng
Tên, Augustinô, Phanxicô..., năm 1673, Đức cha Francois Pallu -
Giám mục tông ṭa Giáo phận Đàng Ngoài - đến Philipines gặp cha
bề trên Tỉnh ḍng Rất Thánh Mân Côi (Ḍng Đaminh) xin gửi thừa
sai sang Việt Nam giúp Giáo phận Đàng Ngoài.
Kể
từ năm 1676, do việc cấm Đạo đă bớt phần căng thẳng, Phố Hiến
trở thành nơi tiếp đón các nhà truyền giáo, nhất là các thừa sai
Ḍng Đaminh từ Philipines.
Ngày 21.03.1890, tỉnh Thái B́nh được thành lập, lấy phủ lị của
Phủ Thái B́nh làm Tỉnh lỵ, trụ sở cơ quan Hành chính. Khi đó Phủ
Thái B́nh có Giáo họ Kỳ Bá, thuộc xứ Sa Cát. Gọi là giáo họ
nhưng thật ra số tín hữu quá ít ỏi. Kỳ Bá hay Kỳ Bố - cũng gọi
là Bố Hải Khẩu - có tên gọi là Bo (như bến đ̣ Bo, cầu Bo). Cha
Phêrô Munơagorri Trung - cha xứ Sa Cát - đă thấy được viễn tượng
họ đạo Kỳ Bá sẽ là nơi phù hợp cho việc xây dựng Toà giám mục.
V́ thế năm 1906, cha đă xây cất nhà thờ tỉnh lị Thái B́nh theo
kiến trúc Gothic. Sau khi làm Giám mục, cha Phêrô Munơagorri
Trung đă thành lập Giáo xứ Thái B́nh
(17.08.1908), gồm 11 họ lẻ cắt từ xứ Cổ Việt và xứ Sa Cát, với
hơn 2.000 tín hữu. Cha Tràng An (Marcos Gispert) được bổ nhiệm
làm cha chính xứ đầu tiên.
Sau mấy chục năm coi sóc, Đức cha
Phêrô Munơagorri Trung đă đưa giáo phận đến điểm cực thịnh. Năm
1934, Giáo phận Trung trởû thành quá lớn đối với một chủ chăn,
Đức Thánh Cha Piô XI và Bề trên giáo phận có ư định chia Giáo
phận Bùi Chu làm hai, đồng
thời chuyển dần quyền lănh đạo giáo phận cho hàng giáo sĩ bản
quốc. Ngày 12.03.1935, Đức Thánh Cha đă bổ nhiệm cha Đaminh Hồ
Ngọc Cẩn làm Giám mục phó Bùi Chu với quyền kế vị. Như vậy, Giáo
phận Bùi Chu là giáo phận thứ hai chuyển giao cho hàng giáo sĩ
Việt Nam (sau Giáo phận Phát Diệm).
1.2 - Thiết lập Giáo phận
Ngày 09 tháng 3 năm 1936 với Sắc chỉ Praecipuas inter
Apostolicas của Đức Giáo hoàng Piô XI, Giáo phận Thái B́nh chính
thức được thành lập (tách khỏi Giáo phận Bùi Chu) bao gồm phần
đất của hai tỉnh Thái B́nh và Hưng Yên, với diện tích 2.207km2.
Đây là một vùng đồng bằng trải rộng, đất đai màu mỡ, nuôi sống
trên 3 triệu dân, chạy dài từ băi biển Đồng Châu (phía Đông) tới
nương khoai An Vĩ (phía Tây).
Sau
khi thành lập, Giáo phận Thái B́nh ngày một thăng tiến về mọi
mặt. Tính đến năm 1939, ngoài Đức cha giáo phận Gioan Casado
Thuận, Giáo phận c̣n có: 25 linh mục Ḍng Đaminh (người Tây Ban
Nha), 57 linh mục người Việt Nam, 333 thầy giảng, 12 sư huynh
Lasan, 10 nữ tu Ḍng Thánh Phaolô, 280 nữ tu Ḍng ba Đaminh,
140.000 tín hữu trong 50 giáo xứ và 552 họ lẻ (Theo thống kê năm
1939 của Les Missions Catholiques en Indochine).
2 – GIÁO PHẬN THÁI B̀NH TỪ NĂM
1936-1954
Một
tháng sau, ngày 15.6.1936, cha Gioan Casado Thuận được Ṭa Thánh
ban sắc phong Giám mục hiệu ṭa Barata, Giám mục tông ṭa đầu
tiên Giáo phận Thái B́nh. Ngày 02.8.1936 tại nhà thờ chính ṭa
Thái B́nh, lễ tấn phong Giám mục được tổ chức long trọng, chủ
phong là Đức cha Gómez Lễ (Francois Gomez de Santago OP).
2.1 - Giáo phận Thái B́nh dưới
thời Đức cha Gioan Casado Thuận (1936-1941)
V́
giáo phận chưa có Toà giám mục, Chủng viện và các cơ sở cần
thiết, nên sau khi được tấn phong Giám mục, ngài bắt tay ngay
vào việc xây dựng cơ sở cho giáo phận. Đức cha là một nhà truyền
giáo nhiệt thành, là một chủ chăn tài ba có nhiều kinh nghiệm về
xây dựng(trong các nhà thờ ngài chủ tŕ xây dựng có các nhà thờ
Thức Hóa, Nam Định). Chỉ sau một năm, (9.1937) ngài đă khánh
thành cơ sở đầu tiên là trường Tiểu chủng viện Mỹ Đức. Tiểu
chủng viện gồm một ṭa nhà ba tầng cao 14 mét, rộng 13 mét, dài
90 mét - nằm bên tả ngạn sông Trà Lư, thuộc xă Cát Đàm, kề cận
là nhà ăn, khu nhà hậu cần, chăn nuôi. Đây là nơi đào tạo nhân
sự cho giáo phận, có năm lên đến 140 tiểu chủng sinh.
Đức
cha cũng để ư đến việc bác ái, quan tâm đến các trẻ em bị bỏ rơi,
nên ngài đă xây dựng một nhà Dục Anh cấp giáo phận, tại Giáo xứ
An Lập, trao cho các chị em “nhà phước” chăm sóc.
Cùng thời gian ấy, Ngài xây dựng Toà giám mục - một ṭa nhà ba
tầng ngay cạnh nhà thờ Chính ṭa - trên một vị trí nh́n bao quát
cả thị xă Thái B́nh. Năm 1940, ngài cho tu sửa nối dài phần đầu
nhà thờ Chính ṭa. Đồng thời nối dài phần đầu Nhà Chủng viện để
làm Nhà Nguyện (1941)
Trên phần đất giáo phận thuộc tỉnh Hưng Yên, Đức cha cho xây
dựng một trường thầy giảng, ṭa nhà kiến trúc theo lối Tây
phương với ba tầng lầu, ngay tại tỉnh lị, làm nơi đào tạo các
thầy giảng, những trợ tá cho các cha xứ trong giáo phận.
Những cơ sở này, Đức cha đă hoàn thành trong một thời gian ngắn
kỷ lục, nội trong có ba năm, ngài đă xây dựng cơ sở vật chất hầu
như đầy đủ cho giáo phận. Ngoài ra, Đức cha c̣n khuyến khích tu
sửa, xây dựng nhiều thánh đường, các nhà xứ, nhà phước, trường
học nơi các giáo xứ.
Về
phương diện tinh thần, Đức cha chú ư đến việc đào tạo nhân tài
cho giáo phận bằng việc gửi đại chủng sinh đi học xa, thành lập
nhiều hội đoàn và thành lập một số giáo xứ mới. Số tín hữu tăng
nhanh, trung b́nh mỗi năm có thêm khoảng ba ngh́n giáo hữu mới.
Số linh mục mỗi năm cũng tăng thêm từ 3 đến 5 vị. Tu sĩ nam nữ
cũng ngày càng thêm đông số.
Có
thể nói, Giáo phận Thái B́nh phát triển mạnh ngay từ ngày thành
lập là nhờ sự lănh đạo tài đức, khôn ngoan, nhiệt thành của Đức
cha Gioan Thuận và những cộng sự viên
của ngài.
Ngày 26.4.1939, Đức cha Gioan Casado Thuận lên đường đi Rôma để
triều yết Đức Thánh Cha Piô XII mới đăng quang. Ngài tŕnh bày
về hiện t́nh giáo phận mà ngài đang đảm nhiệm, xin Đức Thánh Cha
chúc lành và nâng đỡ cho giáo phận c̣n non trẻ. Tiện đường, Đức
cha ghé Tây Ban Nha để thăm lại quê hương cũ, đồng thời quyên
tiền để kiến thiết xứ sở truyền giáo, nơi ngài đang trách nhiệm.
Thế
chiến thứ II bùng nổ, Đức cha Gioan không có phương tiện trở về
giáo phận, ngài phải lưu lại thủ đô Madrid. Ngày 22.01.1941, một
cơn bạo bệnh bất ngờ đă đưa Đức cha Gioan Casado về nước Chúa,
bỏ lại Giáo phận Thái B́nh thân yêu mà ngài mới kiến tạo vững
chắc cả về tinh thần cũng như vật chất.
Là
một vị chủ chăn nhân từ, phúc hậu, hăng hái trong việc truyền
giáo, cha chính Thái đă tận tâm điều hành mọi sinh hoạt trong
giáo phận một cách xuôi chảy trong thời gian một năm giữ chức vụ
nhiếp chính. Tháng 2 năm 1941 một toán đặc công của một tổ chức
bí mật tống tiền và bắt đi mất tích. Mấy ngày sau giáo dân đi
t́m kiếm, thấy thi thể ngài tren ḍng sông Trà Lư gần bến Hộ.
Giáo dân đưa thi hài ngài về an táng trong khu vực nhà thờ Cát
Đàm.
2.2 - Giáo phận Thái B́nh dưới thời Đức cha Santos Ubierna
Ninh (1942-1954)
Trong suốt thời gian Đức cha Ubierna Ninh lănh đạo giáo phận,
đất nước luôn ở trong t́nh trạng chiến tranh, Giáo phận Thái
B́nh cũng lâm cảnh đau thương của kháng chiến chống Nhật, chống
đói, chống Pháp. V́ thế, Đức cha chỉ có thể duy tŕ các cơ sở và
giữ vững tinh thần đức tin cho cộng đoàn dân Chúa trong giáo
phận qua các hội đoàn đă có sẵn. Về văn hóa, ngài đă lập Nhà In
Đaminh Thái B́nh để in ấn những tài liệu, sách báo công giáo cho
giáo phận. Tuy ngài lănh đạo giáo phận trong thời khó khăn,
nhưng cũng mang lại nhiều thành quả tốt đẹp.
Theo thống kê năm 1954, giáo phận Thái B́nh có: 21 linh mục Ḍng
Đaminh, 64 linh mục giáo phận, 35 đại chủng sinh, 160 ngàn giáo
dân. Tổng số dân cư trên phần đất giáo phận là 1,5 triệu (chiếm
tỉ lệ 10,75%). Ngài c̣n lập thêm nhiều giáo xứ, nâng tổng số
giáo xứ trong giáo phận lên đến 63 giáo xứ.
Sau
hiệp định Genève, Đức cha di cư vào miền Nam. Thời gian này,
ngài đă về Tây Ban Nha thăm lại cố hương. Khi trở lại Sài G̣n,
Đức cha luôn thao thức về lại giáo phận trước ngày 29 hoặc 30
tháng 5 năm 1955 (là thời hạn chót cho việc tập kết, theo hiệp
định đ́nh chiến Genève). Ngày 15.4.1955, Đức cha đă an nghỉ
trong Chúa, khi ngài mới có 48 tuổi và 13 năm chăn dắt đoàn
chiên Giáo phận Thái B́nh.
3 - TỪ NĂM 1954- ĐẾN NAY
V́
lư do chiến tranh, hơn một nửa giáo dân di cư, hầu hết cha, tu
sĩ cũng rời giáo phận ra đi (1954). Trong khi đó, cha Đaminh
Đinh Đức Trụ - nguyên là linh hướng Chủng Viện Mỹ Đức, đang coi
xứ Nguyệt Lăng - t́nh nguyện ở lại cùng với một số cha khác. Cha
đă được Đức cha Ninh đặt làm bề trên tổng quản giáo phận, từ
ngày 30.06.1954.
Dưới quyền cha tổng quản Đaminh Đinh Đức Trụ, giáo phận chỉ c̣n
13 linh mục (phần lớn đă có tuổi), 23 chủng sinh, 26 d́ phước
ḍng ba Đaminh, và khoảng 80.000 giáo dân.
3.1 - Giáo phận Thái B́nh dưới
thời Đức cha Đaminh Maria Đinh Đức Trụ (1954-1982)
Sau
gần 6 năm làm giám quản giáo phận, ngày 05.3.1960, Ṭa Thánh ban
sắc phong cha Đaminh Đinh Đức Trụ lên chức Giám mục hiệu ṭa
Catapas, làm Giám mục tông ṭa Giáo phận Thái B́nh. Đức cha
Đaminh Maria Đinh Đức Trụ chào đời ngày 15.10.1909 tại Phú Nhai.
Năm 16 tuổi ngài theo học Latinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường.
Mùa thu năm 1931, ngài theo học khóa Triết tại Đại chủng viện
thánh Alberto Nam Định. Mùa hè năm 1933, ngài thực tập tại Đông
Chú và Đồng Lạc thuộc xứ Đồng Quan. Mùa thu 1934, cha trở lại
Đại chủng viện tiếp tục học Thần Học bốn năm. Măn khóa Thần Học,
ngài được thụ phong linh mục ngày 23.05.1938.
Ngày lễ Truyền Tin
(25.3.1960), cha Đaminh Đinh Đức Trụ đă được Đức Cha Giuse Trịnh
Như Khuê tấn phong Giám mục tại Hà Nội với khẩu hiệu Giám mục là “Tinh
binh của Chúa
Kitô – Bonus Menes Christi”.
Ngày 24.11.1960, Ṭa Thánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam,
Đức cha Đaminh Đinh Đức Trụ trở thành Giám mục chính ṭa đầu
tiên của Giáo phận Thái B́nh.
Khi
c̣n làm giám quản giáo phận, một trong những ưu tư hàng của của
ngài là làm thế nào để bổ sung thêm nhân sự cho giáo phận c̣n
thiếu nhiều do hậu quả cuộc di cư 1954 để lại. Do vậy, đầu năm
1956, cha Đaminh Đinh Đức Trụ khai giảng trường Mỹ Đức, tiếp
nhận tất cả các con em trong giáo phận về học. Niên khoá đầu
tiên 1956-1957, con số học sinh đă lên tới 350.
Ngày 16.7.1960 ngài đă truyền chức linh mục cho bốn thầy đă được
hàm thụ từ trước: Joseph Đinh Bỉnh (1922), Joseph Bùi Văn Cẩm
(1931), Joachim Trần Đức Uyên (1901), Joseph Vũ Văn Vân (1897).
Sau đó, ngài tiếp tục đào tạo và truyền chức cho nhiều thầy nữa.
Sau
một thời gian dài phục vụ giáo phận, ngày 07.6.1982 ngài đă an
nghỉ trong Chúa sau 73 năm trên trần thế, với 44 năm linh mục
vàø 22 năm Giám mục chính ṭa giáo phận. Đức cha Đaminh Đinh Đức
Trụ là một chủ chăn: đạo đức, hy sinh trong cuộc sống; khôn
ngoan, sáng suốt trong lănh đạo; hiền từ, b́nh dân trong giao
tiếp; hăng say, quên ḿnh trong phục vụ; can đảm, cương quyết
trong trách nhiệm.
3.2 - Giáo phận Thái B́nh dưới
thời Đức cha Giuse Maria Đinh Bỉnh (1982-1989)
Vị
Giám mục kế nhiệm Đức cha Đaminh Đinh Đức Trụ là Đức cha Giuse
Đinh Bỉnh. Đức cha Giuse Đinh Bỉnh sinh ngày 02.5.1922 tại Phú
Nhai, Giáo phận Trung. Học xong tiểu học, ngài gia nhập Tiểu
chủng viện Ninh Cường (Bùi Chu), rồi Mỹ Đức (Thái B́nh). Ngài
học Thần học và Lư đoán tại Đại chủng viện thánh Alberto Nam
Định. Ngày 16.07.1960 (lễ Đức Mẹ núi Camêlô), Đức cha Đaminh
Đinh Đức Trụ đă truyền chức linh mục cho ngài. Từ năm 1972-1977,
ngài là giám đốc Chủng viện Mỹ Đức và coi sóc các Giáo xứ Sa Cát,
Phương Xá v.v. Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban sắc
phong giám mục ngày 30-10-1979.
Ngày 08-12-1979, tại nhà thờ chính ṭa Thái B́nh, Đức Hồng Y
Giuse Trịnh Văn Căn tấn phong Giám mục cho ngài . Nhận thức rơ
nhiệm vụ khó khăn của một chủ chăn, vị tân Giám mục đă muốn phó
thác cuộc đời và giáo phận trong tay Đức Mẹ. Khẩu hiệu Giám mục
của ngài là “Ecce Mater tua: Này là Mẹ con”.
Nối
tiếp công việc của vị tiền nhiệm, Đức cha Giuse Đinh Bỉnh luôn
ưu tiên cho việc đào tạo linh mục. Đồng thời ngài tận tâm tận
lực chăm sóc cho đời sống đức tin của giáo phận. Là một chủ chăn
hiền lành, đơn sơ, lấy đức Ái làm phương châm cuộc sống, nên có
người đă gọi ngài bằng biệt danh là “Ḥa B́nh”.
C̣n
đang mải miết lo cho giáo phận, th́ vào lúc 4 giờ sáng ngày
14.03.1989, ngài đă an nghỉ trong Chúa, sau cơn nhồi máu cơ tim,
hưởng thọ 67 tuổi, với 29 năm linh mục và 11 năm Giám mục.
Ngày 14.03.1989, Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn
làm Giám quản Giáo phận Thái B́nh.
Hơn
một năm làm Giám quản, Đức Hồng Y Giuse chú trọng đến đời sống
đức tin của giáo phận; tổ chức những tuần tĩnh tâm cho các linh
mục; khôi phục hội Dâng Hoa tháng Năm kính Đức Mẹ. Ngài cũng lưu
tâm đến việc trùng tu các nhà thờ trong giáo phận.
3.3 - Giáo phận Thái B́nh dưới thời Đức cha Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Sang (1990-2009)
Ngày 03.12.1990, Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức cha Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Sang - Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội - làm
Giám mục chính ṭa Giáo phận Thái B́nh. Đức Cha Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Sang sinh ngày 08.01.1932 tại xứ Lại Yên, huyện Hoài
Đức, ngoại thành Hà Nội. Ngài đă theo học nhiều năm tại Tiểu
chủng viện Hoàng Nguyên, Đại chủng viện Xuân Bích, và trường
Trung học Pháp. Ngày 18.04.1958, tại nhà thờ lớn Hà Nội, ngài
lănh nhận tác vụ linh mục. Ngày 24.03.1981, ngài được Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục hiệu toà Sarda, phụ tá
Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn. Lễ tấn phong Giám mục của
ngài được long trọng cử hành tại Nhà thờ Chính Ṭa Hà Nội vào
ngày 22.04.1981 với khẩu hiệu: "Chân Lư Trong T́nh Thương: Veritatem
in Caritate". Ngày 01.05.1981, ngài được cử giữ chức Giám đốc
Đại chủng viện Hà
Nội. Từ năm 1983-1989, ngài được bầu làm Tổng thư kư Hội đồng
Giám mục Việt Nam trong hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Ngày 3-12-1990, ĐTC đă chỉ định Ngài làm Giám Mục giáo phận Thái
B́nh. Đến ngày 05.02.1991 ngài về nhận Giáo phận Thái B́nh. Khi
vừa đặt chân lên đất Thái B́nh, Đức cha đă “qú xuống hôn lên
mảnh đất thân yêu” mà ngài được chỉ định gắn bó kết duyên.
Như
các vị tiền nhiệm, Đức cha Phanxicô cũng ưu tiên lo lắng đến
việc đào tạo linh mục. Việc đầu tiên là lo cho 9 linh mục được
công khai làm mục vụ và gửi một số linh mục ra nước ngoài du
học. Về cơ sở vật chất, ngài lo tu sửa Toà giám mục, kiến thiết
tân tạo Nhà thờ chính ṭa theo kiểu mẫu tân kỳ. Chấp thuận và
khích lệ việc xây sửa các cơ sở nhà thờ, nhà xứ trong giáo phận.
Năm
1996, Đức cha xin Ṭa Thánh cho tổ chức Năm Thánh Giáo phận Thái
B́nh kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận và 90 năm xây dựng Nhà
thờ chính ṭa. Đặc biệt Toà Thánh ban ơn Toàn Xá trong ba Năm
Thánh liên tiếp (1996, 1997, 1998) cho Giáo phận Thái B́nh.
Trong những năm này, Đức cha cùng với toàn thể giáo phận dâng
lời tạ ơn Thiên Chúa. Đồng thời ngài cũng nhấn mạnh việc ăn năn
sám hối và giao ḥa giữa các thành phần trong Giáo Hội và xă hội.
Là
một Chủ chăn năng động và tài ba, Đức Cha được cử giữ các trọng
trách trong Hội đồng GM Việt Nam : Tổng thư kư , Chủ tịch Ủy Ban
Giáo Dân… chính thời gian này ngài đă tổ chức Đại hội giới trẻ
Công giáo trong Giáo Tỉnh Hà nội tại Thái B́nh, theo gương Đại
hội giới trẻ thế giới của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mở đầu
cho một phong trào Ngày giới trẻ trong các Giáo phận.
Ngày 25.07.2009, ngài đă được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chấp
thuận cho về nghỉ hưu sau 19 năm phục vụ giáo phận.
3.4 - Giáo phận Thái B́nh dưới
thời Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Văn Đệ SDB (2009-đến nay)
Ngày 25.07.2009, Toà Thánh đă chính
thức bổ nhiệm Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Văn Đệ SDB - Giám mục
phụ tá Giáo phận Bùi Chu - làm Giám mục Chính toà Giáo phận Thái
B́nh. Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ sinh ngày 15.01.1946 tại Trí
Bưu, Thạch Hăn,
tỉnh Quảng Trị thuộc tổng Giáo phận Huế. Năm 1958, ngài gia nhập
Ḍng Salesian Don Bosco và khấn Ḍng ngày 15.08.1965. Sau khi
học xong trung học, ngài được gửi đi học triết học tại Hồng Kông
từ năm 1965-1968. Năm 1968, về Việt Nam, ngài theo học Thần Học
tại học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt từ năm 1970-1974. Ngài được
thụ phong linh mục ngày 17.12.1973. Sau khi chịu chức, ngài đă
lần lượt giữ chức: Bề trên Giám Tỉnh Ḍng Don Bosco Salesian
(1992-1997); giám đốc học viện thần học Don Bosco Salesian (
1997-2000); giáo sư Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội
(2000-2005). Ngày 29.11.2005, Toà Thánh chính thức ban sắc phong
ngài làm Giám mục phụ tá Giáo phận Bùi Chu, hiệu toà Ammaedara.
Thánh lế tấn phong Giám mục được cử hành vào ngày 18.01.2006 tại
Nhà thờ chính toà Bùi Chu với khẩu hiệu : “Xin
cho Tôi Các Linh Hồn - Da
Mihi Animas”.
Ngày 01.09.2009, ngài chính thức nhận giáo phận. Kể từ đây, Giáo
phận Thái B́nh là quê hương thứ hai của ngài. Trong bài giảng
ngày nhận giáo phận, ngài nói : “Xin anh chị
em hăy quảng đại đón nhận tôi như một thành viên bé nhỏ vào đại
gia đ́nh giáo phận, và xin cầu nguyện nhiều cho tôi, để tôi luôn
cố gắng bắt chước sống và thực hành như lư tưởng sống của thánh
Phao-lô: từ nay không c̣n là tôi sống nữa là giáo phận Thái B́nh,
là anh chị em giáo dân sống trong tôi. Từ nay sự sống tôi, trái
tim tôi, hơi thở tôi, vui buồn sướng khổ, thành công hay thất
bại của đời tôi, xin được hoàn toàn gắn liền với cuộc sống của
anh chị em, với cộng đoàn dân Chúa tại giáo phận Thái B́nh”.
Sau
khi nhận giáo phận, Đức cha đă lần lượt đi thăm các giáo xứ
trong giáo phận. Ngài đă cùng với linh mục đoàn xây dựng bản Chỉ
Nam cho giáo phận trong hiện tại và hướng đến tương lai. Từ khi
có bản Chỉ Nam, Đức cha đă kiện toàn lại cơ cấu tổ chức trong
giáo phận. Với hơn hai năm về coi sóc giáo phận, ngài không chỉ
quan tâm đến việc xây dựng, kiến thiết cơ sở vật chất, mà c̣n lo
lắng đào tạo nhân sự, quan tâm đến các trẻ em nghèo hiếu học,
nhất là đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn và khuyết tật.