Dựa vào các nguồn sử
liệu, chúng ta cùng nh́n lại những dấu mốc oanh liệt của đạo Chúa
nơi mảnh đất địa đầu Tây bắc Nghệ An này.
Nỗi ám ảnh
về bóng ma Văn Thân
Thời kỳ mà sử gọi là nước Nam rơi vào mảng đen tối nhất, đó là
giao 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ (Biên Ḥa, Định Tường, Gia Định) và
đảo Côn Lôn cho nước Pháp và 4 triệu quan tiền bồi thường chiến
phí theo Ḥa Ước Nhâm Tuất 1862; Tiếp đó lại mất luôn 3 tỉnh miền
Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Sau đó Pháp chiếm đóng Bắc Kỳ
và đặt nền móng bảo hộ ở Bắc Kỳ theo Ḥa Ước Giáp Tuất 1874 kư
giữa Nguyễn Văn Tường, Lê Tuấn và phó đề đốc Dupré. Ḥa Ước Giáp
Tuất có nhiều điều khoản trả lại quyền tự do hành đạo, làm việc
phụng thờ của giáo dân nước Nam và các vị thừa sai. Sau Ḥa Ước
Giáp Tuất 1874 th́ nhóm Văn Thân ở Nghệ Tĩnh nổi dậy tàn sát những
người theo đạo Công giáo.
Theo
Văn Thân th́ khi Đại úy Francis Garnier đánh Hà Nội lần thứ nhất
(20/11/1873) có rất nhiều người Công giáo tiếp tay với quân Pháp;
Cầm đầu Văn Thân lúc đó là ông tú Trần Tấn và Đặng Như Mai nổi lên
cùng 3000 người đi đốt phá những làng theo đạo và tàn sát họ.
Tháng 3 năm 1874 Văn Thân nổi lên và làm bài hịch “B́nh Tây sát tả”,
nội dung nói rằng: Triều đ́nh dẫu
ḥa với Tây mặc ḷng, sĩ phu nước Nam vẫn không chịu. Vậy trước
nhất xin giết hết giáo dân, rồi sau đánh đuổi Tây cho hết để giữ
lấy cái văn hóa của ta hơn 1000 năm nay… Sau đó Triều đ́nh
cử Nguyễn Văn Tường làm khâm sai đem quân ra dẹp từ tháng 4/1874
đến tháng 8/1874 mới xong. Sau khi Tự Đức chết, quyền hành vương
triều Nguyễn lúc đó hầu như nằm trong tay của hai quan phụ chính
là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hai tên quan đại thần này
mặc sức lộng hành thao túng triều chính, lần lượt bức tử Dục Đức
và ám hại Hiệp Ḥa. Bấy giờ không khí khủng bố bao trùm cả kinh
thành Huế. Một số trong Hoàng tộc và giáo dân bị mất tinh thần nên
có số đă phải chạy đi t́m sự bảo vệ của Pháp. Lúc này Thuyết và
Tường chỉ cần một tên vua bù nh́n như Kiến Phúc, 15 tuổi lên ngôi
vua trong một nghi lễ tấn tôn vội vàng vào 5 giờ sáng ngày
02/12/1883 để tránh sự can thiệp của Pháp. Kiến Phúc lên ngôi, Tôn
Thất Thuyết liền mật lệnh cho quân Đoạn Kiết (một lực lượng do ông
Thuyết lập ra để diệt bọn phản quốc, do Ưng Chuyên chỉ huy) vào
các địa phương tàn sát linh mục làm việc trong các Bộ tham mưu và
cố vấn trong hàng ngũ quân đội viễn chinh và một số giáo dân đi
lính cho Pháp. Hậu quả là nhiều làng ở phía nam Thừa Thiên và
Thanh Hóa máu bị đổ một cách thê thảm và các giáo đường, tu viện
bị phá sạch. Đến khi Tây Sơn thất thủ th́ triều đ́nh Huế mới chịu
tiếp đại sứ Pháp Tricou ở Nhật sang thăm Việt Nam vào 01/01/1884.
Hai bên đều mang những vụ vi phạm Ḥa Ước Giáp Tuất ra bàn căi.
Nguyễn Văn Tường yêu cầu Tricou sửa đổi một vài khoản trong Ḥa
Ước để cho sĩ dân bớt công phẫn và công cuộc b́nh định mới được dễ
dàng. Tricou yêu cầu triều đ́nh Huế chấm dứt các cuộc giết hại
giáo dân và trừng trị kẻ chủ mưu. Hai ông Tường và Thuyết cực
chẳng đă phải lập ṭa án để xử Ưng Chuyên tử h́nh nhằm lấy ḷng
Pháp.
Ḥa
Ước cuối cùng giữa Pháp và Việt Nam là Ḥa Ước Patenôtre (1884),
mục đích của Pháp là tách dần sự ảnh hưởng của Tàu khỏi Việt Nam,
được kư giữa Patenôtre, Rheinart và Nguyễn Văn Tường, Phạm Thân
Duật, Tôn Thất Phan. Vua Kiến Phúc lên ngôi được 6 tháng th́ bệnh
nặng và chết. Kiến Phúc băng hà, hai ông Tường và Thuyết chọn Ưng
Lịch lúc bấy giờ mới 12 tuổi lên ngôi vua, nhưng phía Pháp phản
đối v́ vi phạm Ḥa Ước Patenôtre, nhưng sau đó Pháp cũng chấp
thuận và lấy hiệu là Hàm Nghi. Phía Pháp nhận ra những chống đối
trong Triều đ́nh do hai ông Tường và Thuyết cầm đầu nên cần thanh
toán sớm. Tôn Thất Thuyết biết trước ư đồ nên thoát được sự trừng
trị của Pháp trong một cuộc tháo chạy khỏi sự truy kích của quân
Pháp, và ông dẫn vua Hàm Nghi, bà Từ Dũ Hoàng Thái Hậu là mẹ của
Tự Đức, bà Thái Hậu Thuận Hiếu là vợ Tự Đức và mẹ nuôi Dục Đức và
bà Học Phi vợ thứ của Tự Đức và là mẹ nuôi Kiến Phúc, cùng với tùy
tùng tháo chạy. Trong chuyến chạy trốn này, Tôn Thất Thuyết đă ra
Hịch Cần Vương và gửi đi khắp nước, nhưng lần viết Hịch cần vương
thứ hai tại Quảng B́nh (19/07/1885) th́ đă tạo nên một sự hưởng
ứng cuồng nhiệt nơi giới Văn Thân Nghệ Tĩnh B́nh. Hưởng ứng lời
kêu gọi này, một loạt văn hào thân sĩ xuống đường và đều xướng lên
việc “Cần vương cứu quốc”. Họ cho rằng do bọn giáo dân phản quốc
mà có loạn, v́ thế đă đồng nhất “Tây là đạo – đạo là Tây” mà “thù
Tây” th́ “ghét đạo” nên ra sức đốt phá và tàn sát giáo dân tại các
làng có đạo. Cuộc chiến mang hai tính chất chống ngoại xâm và bài
đạo gây nên cảnh cốt nhục tương tàn thật là thảm khốc và đau ḷng.
Phong trào Văn Thân hay là các nhà trí thức khoa bảng vùng dậy
hưởng ứng Hịch cần vương của Hàm Nghi. Thực tế, số thân hào văn sĩ
này không phải cho đến lúc Hàm Nghi xuất đế, sau cuộc đánh úp kinh
thành thất bại, truyền Hịch cần vương, mới nổi lên như vậy, mà đă
có từ khi Pháp mới đặt chân đến nước Nam. Nhưng quả thực sau khi
Hịch được truyền đi th́ mức độ và cường độ nổi dậy dữ dội, dai
dẳng và quy mô hơn, ở Trung Kỳ (Hương Khê – Hà Tĩnh) do quan đ́nh
nguyên Phan Đ́nh Phùng cầm đầu (1887 – 1895)… Chính sử cũng nhận
xét: Do Nghĩa quân không có đường lối rơ ràng, không có sự chỉ huy
thống nhất, và chỉ tập hợp được một loạt tay sai vô lại giang hồ
yểm trợ, chém giết không biết sợ, không phân biệt được kẻ gian
người ngay, cộng với thành kiến có sẵn, nên thẳng tay tàn sát
người dân lành.
"Văn Thân" là
một thành phần xă hội gồm những Nho sĩ, thân hào, thư lại, công
chức hưu trí. Tuy giữ những địa vị khác nhau, nhóm này cùng
hấp thụ một nền giáo dục căn bản như nhau về xă hội-văn hóa. Là
những người đọc được chữ Hán, và với tư thế đó, họ đóng vai tṛ
trung gian giữa triều đ́nh và dân v́ là những người chuyển những
công bố của triều đ́nh đến quần chúng, không những vào những dịp
quan trọng và ngay cả trong đời sống hàng ngày. Điểm chung của "tập
đoàn nho sĩ" này - gồm từ vua đến các quan, đến các thơ lại, các
giáo viên, thân hào, những người chuẩn bị đi thi và những người đă
thi đỗ... - là biết chữ Hán. Họ là những người phổ biến Khổng giáo,
và thấy có nhiệm vụ phải bảo vệ đạo lư Khổng giáo.
Một điều rất đáng để ư nữa là những Nho sĩ chuẩn bị thi cử. Họ là
những thành phần tạo dư luận và quảng bá dư luận hiệu nghiệm hơn
cả. Nhân các kỳ thi, hàng ngàn thí sinh từ khắp các tỉnh trong xứ
tụ hội đông đảo tại các trung tâm thi như Huế, Nam Định (trên
5.000 tại Huế và cùng số đó tại Nam Định nhân kỳ thi năm 1864), đă
trao đổi tin tức với nhau về t́nh h́nh đất nước. Khi về lại tỉnh
nhà, họ là những người quảng bá và b́nh luận thời sự, tạo ra dư
luận. Có thể ví các dịp thi cử này như những đại hội toàn quốc của
các đảng chính trị lớn.
Giới Văn Thân chống sự du nhập của đạo Công giáo v́ cho rằng những
người theo đạo này - "giáo dân" - sống cuộc sống khác lối sống của
người dân thường - "lương dân". Những giáo dân này tụ tập riêng
với nhau, sống ngoài lề cộng đồng, và nhất là từ chối một số nghi
lễ liên hệ đến một tục lệ mà người Việt coi là tối trọng: thờ cúng
ông bà, tổ tiên. Họ từ bỏ tục lệ này v́ một quyết định của Giáo
Hoàng Benoit XIV năm 1742 cho đó là một "mê tín Tàu". V́ tư tưởng,
văn hóa Khổng giáo đặt nặng vấn đề "chính thống", "chính-tà" và
không chấp nhận sự khác biệt ư kiến, nên giới Văn Thân coi Công
giáo như là "Tả đạo".
Ngoài các yếu tố về đạo lư và tư tưởng, c̣n một yếu tố nữa là yếu
tố kinh tế. Điều này rất sáng tỏ sau vụ Pháp chiếm Bắc Kỳ, sa thải
quan chức do triều đ́nh bổ nhiệm, và thay thế bằng những viên chức
theo đạo Công giáo, không thuộc giới khoa bảng. Trước hiện tượng
này, giới Nho sĩ cảm thấy bị đe dọa v́ không c̣n thấy tương lai,
nhất là những người chưa đỗ đạt, và cho dầu có đỗ đạt đi nữa cũng
không c̣n được trọng dụng và quư nể. Địa vị ưu đăi của họ bị đe
dọa, do đó phải có phản ứng.
Một lư do khác, có lẽ quan trọng hơn cả, là giới Văn Thân coi
người Công giáo là những người dọn đường cho quân xâm lăng Pháp.
Họ dựa trên những sự kiện là trong các cuộc tấn công của người
Pháp thường có sự hợp tác của người Công giáo, và trong những âm
mưu chống lại triều đ́nh, những kẻ chủ mưu thường t́m sự ủng hộ
của người Công giáo. Điều này cũng dể hiểu v́ bị cấm đoán, ngược
đăi và chém giết, người Công giáo phải t́m một lực lượng bảo vệ
ḿnh và một chính quyền nâng đỡ họ để tự tồn. Lực lượng đó là Pháp,
chính quyền đó là chính quyền Công giáo. Vô t́nh, giới Văn Thân đă
đẩy người Công giáo vào thế phải đi với Pháp và chống triều đ́nh.
Thái độ của giới Văn Thân trong giai đoạn này gồm hai phần: truyền
thống chống xâm lăng và sự hấp thụ sâu đậm văn hóa Khổng giáo.
Phản ứng chống sự xâm lăng của Pháp không có ǵ ngạc nhiên v́ dân
Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm từ lâu đời. Cho nên sự
kiện giới Văn Thân chống ḥa với Pháp và chủ chiến là điều đương
nhiên. Nhưng qua đó, Pháp có cớ để gây chiến. Phần khác, giới Văn
Thân chủ chiến trong khi Việt Nam ở vào thế rất yếu so với Pháp.
Điểm này sẽ được xét ở đoạn dưới.
Trong việc chống Pháp có một khía cạnh ít được nói đến là khía
cạnh văn hóa. Thái độ của triều đ́nh, và đặc biệt là của giới Văn
Thân, là hậu quả tai hại không tránh được của sự hấp thụ sâu đậm,
nếu không muốn nói là mù quáng tôn sùng, văn hóa Khổng giáo mô
h́nh Trung Hoa. Cho đến cuối thế kỷ XIX, giới Nho sĩ - trí thức -
Việt Nam chỉ biết có văn minh Trung Hoa và coi văn minh đó là
tuyệt mỹ, tuyệt đối, không có văn minh nào có thể hơn được. Nói
theo ngôn ngữ ngày nay, đó là đỉnh cao của trí tuệ, khuôn mẫu để
mọi người bắt chước. Tất cả những biểu hiện khác với văn minh đó
đều là man di, thấp kém, không đáng học hỏi, bắt chước. Đây là
thái độ của Nho sĩ Việt Nam đối với người Tây phương, nói chung,
và người Pháp, nói riêng, khi người Pháp xuất hiện và xin giao
dịch với Việt Nam. Thái độ này dẫn đến sự gạt bỏ tất cả các đề
nghị canh tân, hiện đại hóa kiểu Tây phương để đạt phú cường và
đương đầu với ư đồ bành trướng của Pháp.
Quan điểm và thái độ của giới Văn Thân được tŕnh bày rất rơ ràng
trong Hịch Văn Thân ngày 19-3-1874. Hịch này kêu gọi "kẻ Nho gia"
ném bút cầm vũ khí để chống "Tây tặc" và "Dương di". Mà chống Pháp
trước hết là diệt hết Công giáo th́ "Tây tặc không cửa bước vào mà
Dương di cũng không chỗ nào tới được". Khẩu hiệu được tung ra là "Sát
Tả, B́nh Tây". Đạo Gia Tô đột nhập Việt Nam là một đạo giáo "vô
phụ vô quân như loại chó dê... bỏ phải trái nói điều mạnh yếu"...
Niềm tự hào
về những ḍng máu anh hùng tử đạo
Gắn với những thời điểm lịch sử đẫm máu là những trang sử của giáo
xứ Quan Lăng. Giáo xưa Quan Lăng được thành lập từ năm 1853, một
cộng đoàn tín hữu chạy trốn sự bách hại của Minh Mệnh (1827) lên
vùng cao này để dễ bề sinh sống và giữa đạo. Theo nguồn sử liệu
trong LỊCH SỬ GIÁO XỨ QUAN LĂNG, được chia ra các thời kỳ gắn với
sự h́nh thành và phát triển của giáo xứ:
- Năm 1849: Dưới triều Tự Đức, việc cấm đạo rất gắt gao. Nhưng
gương xả thân cứu người của các tín hữu Kitô trong cơn dịch tả
nghiêm trọng, theo lời kêu gọi của các vị Cha Chung, đă khiến mọi
người thán phục.
- Tháng 9 năm 1858: Quân Pháp bắn phá và đổ bộ lên Đà Nẵng, triều
đ́nh càng nghi ngờ người công giáo tiếp tay cho giặc. Tự Đức liên
tiếp ra các sắc chỉ cấm đạo.
- Năm 1860: Quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ. Mọi căm ghét
đổ lên đầu “tả đạo”. Ngày 05/08/1861 vua Tự Đức ra sắc chỉ thứ 8
truyền Phân Tháp các làng Công giáo. Một trang sử thương đau cho
Giáo Hội Việt Nam, nhất là giáo phận Vinh.
- Năm 1862: ngày 5 tháng 6, triều Nguyễn kư ḥa ước nhường ba tỉnh
miền Đông cho Pháp, chấp nhận cho Pháp vào Đà Nẵng tự do buôn bán,
đặt sứ thần ở Huế, cho tự do giảng đạo Thiên Chúa, và nếu có cắt
đất nhường cho một quốc gia khác phải báo trước cho Pháp biết, hai
bên không chứa chấp "giặc" và giao "giặc" cho nhau ("giặc" ở đây
hiểu theo Pháp, là những người chống Pháp). Các sử gia Việt Nam
thường gọi ḥa ước này là "Ḥa ước năm Nhâm Tuất". Trong t́nh h́nh
này chắc chắn giáo dân Dừa Lăng không tránh khỏi đau thương. Nhưng
chưa đầy một năm sau lệnh ân xá ban ra và mọi người được hưởng một
bầu khí an b́nh, tuy nhiên rất ngắn ngủi v́ lực lượng Văn Thân ráo
riết nhắm vào người có đạo trừng trị v́ cho rằng đó là lực lượng
nội phản.
- Sau sự kiện 20/11/1873 rối đến Ḥa Ước Nhâm Tuất 15/3/1874, lúc
này Văn Thân mới rầm rộ nổi lên, và Giáo phận Vinh bước vào giai
đoạn đầy đau thương. Ngày 21/4/1874, Tú Vinh chiêu tập chừng 700
người đốt phá xứ Quan Lăng. Ngày 22/4/1874, một nhóm tách khỏi
đoàn đi đốt phá Sớ, số khác lên phá Kẻ Mực và Cây Chanh, lần này
có 93 giáo hữu bị giết. Ngày 26/4, người ngoại giáo Kẻ Mực bắt 4
người Công giáo nộp cho phó tổng Ba, có ông Ngân bị giết, 3 kia
khác được tha.. Ngày 28/4, họ bắt được một người con trai của ông
Trương nhưng rồi tha cho về và bắt đi t́m cha xứ Khiêm và ông
Trương. Ông Trương bị bắt do lời chiêu dụ khoan hồng, cha Khiêm
không tin và trốn thoát chiu lủi trong rừng với cái đói rét và
bệnh tật cùng một số giáo hữu khác. Ngày 18/7 khoảng 1200 tên nhóm
Văn Thân từ Anh Sơn lên, chúng lục soát rừng rú xung quanh xứ Lạng,
phá hết mọi lều trại của giáo hữu trú ẩn, tịch thu đồ đạc và bắt
đi 21 người, giết một số, c̣n lại bắt đi t́m cha Khiêm, nhưng họ
chỉ tuân lệnh cho qua mà không cố công t́m. Đến 12/8 th́ lính
triều đ́nh chiếm phủ Anh Sơn và ra lệnh cấm bách hại giáo hữu theo
lệnh của khâm sai Nguyễn Văn Tường, tuân thủ Ḥa Ước Giáp Tuất.
Sau đó Cha Khiêm về được với đoàn chiên, nỗi vui mừng trong ngày
sum họp thật không diễn tả hết.
- Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, sau đó 1885 th́ lại xẩy ra những
cuộc bách hại dữ dội hơn cũng do nhóm Văn Thân khởi xướng và lănh
đạo.
- Năm 1887, Văn Thân thoái trào, các làng Công giáo mới có cơ hội
phục hồi tái thiết. Triều đ́nh bắt các làng ngoài giáo bồi thường
đất đai tài sản cho giáo dân. Giáo dân Dừa Lăng trở về làng cũ gầy
dựng lại cơ đồ. Từ đây sinh hoạt tôn giáo ngày càng khởi sắc. Lịch
sử êm ả trôi cho đến thời kỳ thập niên 30 thế kỷ XX: Đảng Cộng sản
ra đời; Cách mạng tháng 8 thành công khi sinh ra nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa; thực hiện giảm tô cải cách; chiến tranh chống pháp,
chống mỹ; Thông nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa trên toàn cơi
Việt Nam: Hợp tác hóa, cải tạo công thương… Tất cả đều gắn với xứ
sở Dừa Lăng những dấu ấn lịch sử này. Những giai đoạn đó có cha
Ngọc, cha Thiện, cha Hương cùng với những giáo dân khác… là chứng
nhân anh dũng cho sự kiên trung với Giáo Hội để duy tŕ sự đạo nơi
đây. Năm 1991, bước ngoặt lịch sử làm thay đổi chế độ chính trị
của toàn khối XHCN, đă tạo nên bước chuyển ḿnh mạnh mẽ trên Quan
Lăng, Nhà thờ được xây mới.
Ngày
21/5/1995 lễ cung hiến Thánh đường Quan Lăng với tước hiệu Tổng
lănh Thiên thần Micae.
Ngày 15/12/2006, cha Antôn Trần Văn Công về quản xứ và ngài liền
bắt tay vào việc kiến thiết lại ngôi thánh đường sau hơn 10 năm đă
không đủ cho việc phụng thờ của xứ đạo không phát triển nơi đây.
Và sau hơn một năm, ngày 15/12/2008 cũng là ngày kỷ niệm cha Antôn
về quản xứ, ngôi thánh đường mới lại được cắt băng khánh thành và
cung hiến. Cùng ngày, giáo xứ có 281 em được lănh nhận Bí tích
Thêm sức.
Trải qua lịch sử nhiều thăng trầm của giáo xứ Quan Lăng, ḍng máu
anh hùng tử đạo đă thấm nơi mảnh đất này làm trôe sinh nhiều hoa
quả ơn gọi, toàn giáo xứ hiện có hơn 70 Linh mục và nam nữ Tu sĩ,
trong đó có 6 linh mục là những người con của giáo xứ và có 50 Tu
sĩ đă khấn trọn.
Cám ơn cha ông, những người anh dũng hy sinh cho đạo Chúa nơi đây
ngày càng được phát triển không ngừng, cống hiến nhiều cho Giáo
Hội những người con trung kiên bảo vệ Giáo Hội và mở mang nước
Chúa.
Tham khảo:
1/ Lich sử xứ Quan Lăng