|

Lược
sử Giáo xứ Tam Ṭa
Giáo xứ Tam Ṭa, có nhà thờ tọa lạc tại đường Nguyễn Du, thành
phố Đồng Hới hiện nay, đă được thành lập khoảng năm 1631 với tên gọi
là "xứ đạo Đông Hải, c̣n gọi là Họ Lũy."
Khoảng năm 1774, sau khi lực lượng Chúa Trịnh chiếm được Đàng
Trong và san bằng nơi thường được gọi là "Lũy Thầy", nhà thờ này
được chuyển về khu vực Cầu Ngắn, nay thuộc phường Phú Hải, và được
gọi là giáo xứ Sáo Bùn. Khoảng năm 1886, Sáo Bùn có khoảng 200 nóc
nhà với khoảng 1,200 giáo hữu. Ở đây có Viện Dục Anh để giúp nuôi
trẻ em nghèo và có tu viện ḍng Mến Thánh Giá phục vụ từ thiện và
giáo dục.
Năm 1886, Quân Văn Thân đột kích giáo xứ Sáo Bùn, giết chết 52
giáo dân, đốt phá nhà thờ Sáo Bùn, nên số giáo dân chạy về Đông Hới
lánh nạn. Sau khi được sự cho phép của chính quyền bảo hộ và các cơ
quan hữu trách, Cha sở lúc này là cố Claude Bonin và giáo dân Tam
Ṭa chuyển nhà thờ về ở rẻo đất bên bờ sông Nhật Lệ sát cửa thành
thuộc đất làng Mỹ Lệ và đổi tên thành giáo xứ Tam Ṭa, cho đến hôm
nay. Năm 1850, khi giáo phận Huế được thành lập, Tam Ṭa thuộc sự
quản lư của Giáo phận Huế.
Nhà thờ Tam Ṭa lần đầu tiên được xây dựng năm 1887 và năm 1940,
được tái thiết khang trang và hoàn chỉnh hơn.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, hầu hết giáo dân Tam Ṭa, cùng
với rất nhiều dân cư ở đây và giáo dân các xứ thuộc hạt Nam Quảng
B́nh di cư vào Đà Nẵng sinh sống và thành lập giáo xứ Tam Toà ở Đà
Nẵng. Từ đó, số giáo dân c̣n lại ở đây được coi sóc bởi 2 linh mục
Trần Quang Nghiêm và Lương Minh Thể. Đến năm 1962, cha Thể qua đời,
và năm 1964, chiến tranh lại bùng phát, cha Nghiêm rời Tam Ṭa cho
đến nay không có linh mục coi sóc.
Năm 1968, nhà thờ Tam Ṭa bị máy bay Mỹ oanh kích, đổ nát và được
duy tŕ trong t́nh trạng này cho đến ngày nay. Mặc dầu số giáo dân
c̣n lại quá ít ỏi, không đủ khả năng tái thiết, nhưng Tổng giáo phận
Huế cũng như bà con Tam Ṭa vẫn luôn ước mong tái thiết nhà thờ mà
Cha Ông họ đă dày công xây dựng.
Ngày 26/3/1997, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng B́nh tự động ra quyết
định đưa nhà thờ Tam Ṭa vào danh mục di tích lịch sử như một di
chứng tội ác chiến tranh, không thông qua ư kiến của chủ sở hữu là
Tổng giáo phận Huế và bà con giáo dân giáo xứ Tam Ṭa.
Đến ngày 15/5/2006, Tổng giáo phận Huế chuyển giáo hạt Nam Quảng
B́nh cho giáo phận Vinh, trong đó có giáo xứ Tam Ṭa. Ngay sau đó,
Đức cha Phaolô Maria Cao Đ́nh Thuyên, giám mục giáo phận Vinh bổ
nhiệm linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng về quản xứ Làng Sen, kiêm xứ Tam
Ṭa, có hơn 1,000 giáo dân sinh sống tại địa bàn thành phố Đồng Hới,
quanh nhà thờ Tam Toà.
Hiện nhà thờ cũ đổ nát, mọi sinh hoạt tôn giáo đang phải nhờ nhà
của một giáo dân tại đường Nguyễn Du, cách nền nhà thờ Tam Ṭa
khoảng 100m về phía Tây Bắc.
V́ thế, giáo phận Vinh đang làm thủ tục lấy lại đất này, xây dựng
nhà thờ Tam Ṭa, đảm bảo quyền lợi thực tế chính đáng của công dân.
Đây là điều hoàn toàn có căn cứ lịch sử và cơ sở pháp lư.
Trước hết, phải khẳng định rằng việc Giáo phận Vinh tái thiết
giáo xứ Tam Ṭa là cần thiết và hợp pháp, đáp ứng nhu cầu thực tế
của công dân, do đó không cần phải xin cấp phép lại. Theo nội dung
trên, giáo xứ Tam Ṭa được thành lập và hoạt động hợp pháp từ rất
sớm, năm 1631. Ngay cả khi v́ hoàn cảnh lịch sử, giáo dân phải di cư
đi nơi khác, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá, số c̣n lại không đủ
điều kiện tái thiết, Tam Ṭa vẫn luôn luôn là một giáo xứ thuộc Tổng
giáo phận Huế, nay thuộc giáo phận Vinh.
Thứ hai, việc Giáo phận Vinh yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
B́nh trả lại khuôn viên nhà thờ Tam Ṭa, để xây dựng lại, phục vụ
nhu cầu của đông đảo giáo dân ở đây là điều chính đáng, đúng pháp
luật.
Bộ giáo luật 1983, điều 1279 quy định: Ṭa giám mục, đứng đầu là
Giám mục giáo phận, là người trực tiếp đứng chủ, quản lư, sử dụng
mọi tài sản của Giáo hội tại địa phương. Theo đó, đất và nhà thờ Tam
Ṭa là tài sản của Giáo hội Công Giáo Việt Nam, do ṭa tổng giám mục
Huế trực tiếp đứng chủ, quản lư và sử dụng, trước sau không thay đổi.
Địa bàn quản lư của tổng giáo phận Huế trước và sau hiệp định
Genève (1954) vẫn bao gồm cả hạt Nam Quảng B́nh. Trong đó, nhà thờ
Tam Ṭa cũng thuộc sự quản lư đó cả trên lư thuyết và thực tiễn.
Việc giáo dân Tam Ṭa, v́ hoàn cảnh lịch sử phải di cư đi nơi khác
làm ăn sinh sống, nhà thờ bị chiến tranh tàn phá nặng nề, số c̣n lại
không có khả năng tái thiết để đưa vào sinh hoạt, hoàn toàn không
làm thay đổi chủ sở hữu nhà thờ và đất đó, là ṭa tổng giám mục Huế.
Điều 70 hiến pháp nước cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam cũng
quy định rơ ràng rằng: "Những nơi thờ tự của các tổ chức tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm". Điều đó đă
được quy định chi tiết và cụ thể hơn tại Pháp lệnh tôn giáo năm
2005: "Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưởng tôn giáo được pháp
luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi việc xâm phạm tài sản đó" (Điều 26). Và
"Đất có các công tŕnh do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa,
nhà thờ, thánh thất, thánh đường..." (Điều 27). Nội dung này cũng đă
được quy định rất chi tiết tại các Điều 220 Bộ luật dân sự và điều 9
Luật đất đai 2003.
Năm 1996, việc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng B́nh tự tiện chia cắt
đất và đưa khuôn viên nhà thờ Tam Ṭa vào danh mục di tích tội ác
chiến tranh mà không thông qua ư kiến của chủ sở hữu là Ṭa tổng
giám mục Huế là vi phạm nghiêm trọng các quy tắc trên của pháp luật,
đi ngược lại lịch sử.
Trên thực tế, đất nhà thờ Tam Toà đă có từ năm 1886, cho đến năm
1997 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng b́nh chiếm dụng trái phép. Diện
tích đất này chưa bao giờ thuộc diện bị cải tạo theo luật cải cách
ruộng đất và thông tư số 73 ngày 7/7/1962. Cũng không hề có quyết
định trưng dụng, trưng thu hay trưng mua nào hết.
Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng B́nh đang quản lư khuôn viên này
theo danh mục đất có di tích lịch sử là điều bất hợp pháp. Do đó,
cần áp dụng Điều 98 Luật đất đai 2003 để xử lư chuyển mục đích sử
dụng, trả lại cho Giáo hội Công Giáo Việt Nam, trực tiếp là giáo
phận Vinh.
VietCatholic
|
|